Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889




Trang Mạng Lê Quang Đẳng
www.lequangdang.net



Quân đội nhà Nguyễn


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Quân đội nhà Nguyễn là hệ thống tổ chức các lực lượng vũ trang của triều đình nhà Nguyễn bắt đầu từ triều vua Nguyễn Thế Tổ, niên hiệu "Gia Long" đến hết triều vua Nguyễn Dực Tông, niên hiệu "Tự Đức": 1802-1883. Trên danh nghĩa, nhà Nguyễn tiếp tục thống lĩnh lực lượng này cho đến năm 1945 nhưng sau khi người Pháp lập cuộc bảo hộ thì quân đội của triều đình Huế không còn thuộc quyền chỉ huy của hoàng đế Việt Nam nữa mà phụ thuộc quân đội Pháp.

Tổ chức

Đơn vị và cấp chỉ huy

Quân đội nhà Nguyễn có năm vị chỉ huy cao nhất chia theo 5 đạo quân, gồm trung quân, tả quân, hữu quân, tiền quân, và hậu quân. Quân hàm này người Pháp dịch là "maréchal" như trường hợp Lê Văn Duyệt. Ông được gọi là đức Tả quân vì ông chỉ huy đạo quân đó. Dưới 5 vị tướng quân này là thống chế (người Pháp dịch là "maréchal-amiral"), đề đốc ("général de division" hoặc "général de brigade"), lãnh binh ("colonel") và phó lãnh binh ("lieutenant-colonel").[1]

Đơn vị nhà binh nhỏ nhất gọi là ngũ gồm năm người có ngũ trưởng đứng đầu. Hai ngũ là một thập, tức 10 người có cai chỉ huy. Năm thập là một đội, tức 50 lính, có chánh suất đội chỉ huy và phó suất đội phụ tá. Tập hợp 10-12 đội là một vệ hay một , tức khoảng 500-600 lính (người Pháp dịch là "bataillon"). Vệ thì có vệ úy, còn gọi là chưởng vệ hay chánh vệ chỉ huy và phó vệ hiệp tá. Cơ thì có quản cơphó quản cơ[1]. Một doanh là năm đến tám vệ, khoảng 2.500-4.800 lính.[2]

Các vị tướng chỉ huy tập trung lo phần chiến thuật và luyện tập trong khi chiến lược và tổng điều hành thì thuộc Bộ Binh, một trong sáu thành phần của Lục bộ trong triều.

Quân đội nhà Nguyễn có năm vị chỉ huy cao nhất chia theo 5 đạo quân, gồm trung quân, tả quân, hữu quân, tiền quân, và hậu quân.

   Quân hàm này người Pháp dịch là "maréchal" như trường hợp Lê Văn Duyệt. Ông được gọi là đức Tả quân vì ông chỉ huy đạo quân đó. Dưới 5 vị tướng quân này là thống chế (người Pháp dịch là "maréchal-amiral"), đề đốc ("général de division" hoặc "général de brigade"), lãnh binh ("colonel") và phó lãnh binh ("lieutenant-colonel").[1]

   Đơn vị nhà binh nhỏ nhất gọi là ngũ gồm năm người có ngũ trưởng đứng đầu. Hai ngũ là một thập, tức 10 người cócai chỉ huy. Năm thập là một đội, tức 50 lính, có chánh suất đội chỉ huy và phó suất đội phụ tá. Tập hợp 10-12 đội là một vệ hay một , tức khoảng 500-600 lính (người Pháp dịch là "bataillon"). Vệ thì có vệ úy, còn gọi là chưởng vệ hay chánh vệ chỉ huy và phó vệ hiệp tá. Cơ thì có quản cơphó quản cơ[1]. Một doanh là năm đến tám vệ, khoảng 2.500-4.800 lính.[2]

Các vị tướng chỉ huy tập trung lo phần chiến thuật và luyện tập trong khi chiến lược và tổng điều hành thì thuộc Bộ Binh, một trong sáu thành phần của Lục bộ trong triều.


Ngạch Võ Quan

phẩm trật quan tước huy hiệu trên bố tử tương đương tiếng Pháp đơn vị chỉ huy
Nhất phẩm Tướng quân kỳ lân maréchal đạo
Nhị phẩm Đề đốc bạch trách général doanh (2.500-4.800 lính)
Tam phẩm Lãnh binh, Chưởng vệ sư tử colonel, commandant de la Garde impériale vệ (500-600 lính)
Tứ phẩm Quản cơ hổ chef de régiment provincial cơ (500-600 lính)
Ngũ phẩm Chánh suất đội báo capitaine đội (50 lính)
Lục phẩm Phó suất đội hùng lieutenant
Thất phẩm Cai bưu sergent thập (10 lính)
Bát phẩm Ngũ trưởng hải mã caporal ngũ (5 lính)
Cửu phẩm Thơ lại tê ngưu sergent-fourrier























































Binh lính ở các tỉnh

   Trong quân đội thì có các đội bộ binh, pháo binhtượng binh (không có kỵ binh dùng giao chiến tuy kỵ binh vẫn có vai trò lễ nghi). Lính tòng quân thì chia thành hai lực lượng: lính vệlính cơ. Lính vệ là quân đội chính quy, thường tại ngũ, chủ yếu đóng ở kinh kỳ cùng các tỉnh thành. Lính vệ còn gọi là tuyển binh. Lính cơ thuộc loại lính mộ địa phương nên còn gọi là biền binh hay mộ binh, khi cần tới thì gọi nhưng thời bình thì về quê làm ruộng, chủ yếu là bổ sung thêm cho lực lược chính quy. Phép luân phiên đó gọi là "Biền binh định lệ". Các đơn vị thì chia làm ba phiên; hai phiên cho về quê, chỉ giữ một phiên. Hết hạn lại thay phiên ra sung vào quân dịch.


Lính Pháo Thủ

 Binh lính ở kinh đô

   Quân đóng ở kinh thành Huế thì được chia thành ba hạng: thân binh, cấm binhtinh binh. Thân binh dùng để bảo vệ vua. Cấm binh để canh giữ và chăm sóc kinh thành. Tinh binh được giao việc trấn giữ khu vực ngoài kinh thành. Ngoài ra còn có thuộc binh trong các phủ đệ của các vương tôn, hoàng tử và đại thần dùng hầu hạ chứ không phải việc quốc sự.

  1. Thân binh gồm các vệ Cẩm Y, vệ Kim Ngô, vệ Tuyển Phong và doanh Vũ Lâm.
  2. Cấm binh gồm các doanh Thần Cơ, doanh Thần Phong, doanh Long Vũ, doanh Hổ Uy, doanh Hùng Nhuệ, vệ Kỳ Vũ, vệ Kinh Tượng (tượng binh), vệ Thượng Tứ (kỵ binh), vệ Long Thuyền (chuyên chở thuyền vua), viện Vũ Bị (lính dùng súng), viện Thượng Trà (dâng nước), đội Tư Pháo (chế thuốc súng), đội Tài Thụ (trồng cây), đội Giáo Dưỡng, vệ Võng Thành (lo bẫy săn cho vua), đội Thượng Thiện (bếp núc) và đội Phụng Thiện.
  3. Tinh binh gồm có ba doanh của Kinh kỳ thủy sư, vệ Giám Thành, vệ Thủ Hộ, vệ Dực Hùng, ty Lý Thiện (bánh trái để cúng tế), thự Hòa Thanh (ca nhạc), thự Thanh Bình

Nghi Vệ Tượng Binh Nhà Nguyễn

Việc tuyển lính và số quân

   Phép tuyển lính triều Nguyễn có tên là "Giản binh định lệ".[4] Theo đó thì lính vệ được tuyển theo nguyên quán. Các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận thì ba suất đinh tuyển lấy một lính. Các tỉnh Nam Kỳ, tức từ Bình thuận vô nam thì năm suất đinh lấy tuyển lấy một lính. Các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra trung châu Bắc Kỳ cùng Quảng Yên thì bảy suất đinh tuyển lấy một lính. Riêng các tỉnh thượng du gồm Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng SơnCao Bằng thì 10 suất đinh mới tuyển lấy một lính.[5]

Nếu lấy trung bình là tám suất đinh lấy một lính, căn cứ trên số tráng đinh năm 1847 là 1.024.388 thì có khoảng 128.000 lính trên toàn quốc. Áp dụng phép "Biền binh định lệ" tức luân phiên cho lính về quê làm ruộng thì số quân hiện dịch là khoảng 4-50 nghìn.[6]

Theo đánh giá của tướng Pháp de Courcy trong thời gian Pháp xâm chiếm Việt Nam, năm 1885, quân đội chính qui "An Nam" có vào khoảng 70.000 người, trong số đó 12 ngàn tuyển mộ từ các vùng quanh kinh thành Huế. Ngoài ra, theo ông, cũng phải kể đến "vô số" các toán dân quân thành lập và đóng tại các thành phố lớn, cũng như tại hầu hết các làng. Các đội dân quân này tuy nhiên trang phục rách rưới, vũ trang nghèo nàn, và thiếu tổ chức.[7]

Việc thi tuyển chủ yếu căn cứ theo tầm vóc và sức mạnh. Ai xách quả tạ nặng 100 cân bằng một tay đi được 30 trượng thì xếp hạng ưu; đi 24 trượng thì hạng thứ ưu; đi 20 trượng thì hạng bình; 16 trượng là hạng thứ bình; 10 trượng là hạng thứ.[8]

Triều Minh Mệnh lại lập thêm đội "Giáo dưỡng binh" để con các võ quan theo học cùng được lãnh lương hầu đào tạo giới trẻ[6]. Học trình kéo dài sáu năm.[9]

Khi còn giao chiến với lực lượng Tây Sơn quân đội nhà Nguyễn có thu nạp một số sĩ quan và binh lính ngoại quốc trong số đó có người ở lại nhận quan tước vào triều Gia Long như Jean-Baptiste ChaigneauPhilippe Vannier, giúp huấn luyện quân sĩ theo phương thức Âu châu. Sang triều Minh Mệnh thì đa số chọn hồi hương và quân đội nhà Nguyễn mất đi nguồn kiến thức tân tiến về chiến thuật và chiến cụ.

 
Jean-Baptise Chaigneau, làm vỏ quan nhà Nguyễn

Ngoài ra, nhà Nguyễn còn sử dụng những người mắc tội để xung quân, làm đồn điền tại những miền biên viễn như trấn Gia Định hay trấn Tây Thành (Campuchia). Tại Gia Định, lực lượng này chủ yếu gồm những người mắc tội ở miền Bắc hay miền Trung Việt Nam, gọi là quân Thanh Thuận, An Thuận, Hồi Lương và Bắc Thuận. Thanh Thuận và An Thuận là những người tham gia cuộc nổi loạn tại Thanh Hóa, Nghệ An trong thập kỷ 1810[10]. Hồi Lương là những tội phạm cũ, nay được tha, được đưa vào quân đội để chuộc tội. Bắc Thuận là những người trốn tránh lao dịch, bỏ làng xã, không có tên trong sổ bạ ở Bắc Thành (Bắc Bộ), được tuyển mộ vào quân ngũ, tức là khác với những binh lính quân dịch thông thường. Các đơn vị Hồi Lương và Bắc Thuận là những toán quân tích cực tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi sau này

Võ khí và luyện tập

   Súng ống của pháo binh thời nhà Nguyễn thì cỡ lớn là súng đại bác, còn gọi là thần công; nhỏ là súng thạch cơ điểu thương.

Triều Minh Mạng thì mỗi vệ (500-600 lính) có 2 khẩu thần công và 200 khẩu thạch cơ điểu thương với tỷ số 4 tay súng cho mỗi 10 lính. Sang triều Tự Đức thì mỗi đội (50 lính) có 5 khẩu điểu thương nên tỷ số rút thành 1 tay súng cho mỗi 10 lính. Hằng năm thì tập bắn chỉ một lần và mỗi tay súng chỉ có quyền bắn 6 viên đạn. Ai bắn hơn số ấy phải bồi thường

Thành lũy

   Bắt đầu từ triều Gia Long, nhà Nguyễn cho xây một số thành quách áp dụng phép kiến trúc Vauban với chủ ý phòng thủ như kinh thành Huế (1805-1832); Bắc Thành (Hà Nội) (1805); Gia Định (Sài Gòn) (1832).[12]

Kiến trúc Vauban vốn du nhập Việt Nam từ thế kỷ trước do Olivier de Puymanel (sử Việt thường gọi là Nguyễn Văn Tín) đem đến[13] nhưng đến thời Nguyễn thì được áp dụng rộng rãi. Ở những thị trấn nhỏ hơn nhưng có giá trị chiến lược triều đình cũng cho xúc tiến xây cất thành lũy phòng ngự trong số đó có Sơn Tây (1822)[14], Bắc Ninh (1805), Hải Dương, Hưng Yên (1832)[15], Nam Định[16] (1833)[15], Nghệ An (1831),[17] Thanh Hóa (1804),[18] và Điện Hải (Đà Nẵng)[19] (1847)[20]. Xét về mặt chiến lược thì cách xây cất có tính cách khoa học nhưng vị trí và phương hướng còn bị tri phối bởi thuật phong thủy.[21]

Những thành lũy này phản ảnh chiến thuật coi trọng thế "thủ" hơn thế "công" của triều đình nhà Nguyễn.


Thành Gia Định 1832- Áp dụng kỹ thuật  phòng thủ Vauban

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99i_Nh%C3%A0_Nguy%E1%BB%85n






Trang mạng Lê Quang Đẳng
Trang Tổ Chức Quân Đội Nhà Nguyễn
Emai: info@lequangdang.net
www.lequangdang.net