Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
Trang
mạng
Lê
Quang
Đẳng
www.lequangdang.net
Học Thuyết Ngũ Hành
ThS. BS.
Lê Hoàng Sơn
I.
Khái niệm
Ngũ: năm; Hành: vận động, đi.
Học thuyết Ngũ hành là một học thuyết về mối quan hệ giữa
các sự vật hiện tượng. Đó là một mối quan hệ
“động” (vì vậy mà gọi là Hành). Có
hai kiểu quan hệ: đó là Tương sinh và Tương khắc.
Do đó mà có 5 vị trí (vì vậy
mà gọi là Ngũ).
Sơ
đồ 1: mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng: 5 vị trí
và 2 mối quan hệ
Sinh
(→) và Khắc (4)
Người xưa mượn tên và hình ảnh của 5 loại vật chất
để đặt tên cho 5 vị trí đó là Mộc - Hỏa -
Thổ - Kim - Thủy, và gán cho chúng tính
chất riêng:
- Mộc: có tính chất động, khởi đầu (Sinh).
- Hỏa: có tính chất nhiệt, phát triển (Trưởng).
- Thổ: có tính chất nuôi dưỡng, sinh sản
(Hóa).
- Kim: có tính chất thu lại (Thu).
- Thủy: có tính chất tàng chứa (Tàng).
Sau đó qui nạp mọi sự vật hiện tượng ngoài thiên
nhiên lẫn trong cơ thể con người vào Ngũ hành để
xét mối quan hệ Sinh - Khắc giữa các sự vật hiện tượng
đó.
Như vậy, học thuyết Ngũ hành chính là sự cụ thể
hóa qui luật vận động chuyển hóa của mọi sự vật hiện
tượng. Học thuyết Ngũ hành được ứng dụng trong rất nhiều kĩnh
vực Y học lẫn đời sống.
II. Qui loại
Ngũ hành
Có thể tóm tắt việc qui loại các sự vật hiện tượng
trong ự nhiên lẫn trong cơ hể con người vào bảng sau (bảng
1)
Bảng
1: qui loại Ngũ hành
|
Mộc
|
Hỏa
|
Thổ
|
Kim
|
Thủy
|
Vật chất
|
Cây,
gỗ
|
Lửa
|
Đất
|
Kim loại
|
Nước
|
Màu
|
Lục
|
Đỏ
|
Vàng
|
Trắng
|
Đen
|
Vị
|
Chua
|
Đắng
|
Ngọt
|
Cay
|
Mặn
|
Mùa
|
Xuân
|
Hạ
|
Trưởng hạ
|
Thu
|
Đông
|
Hướng
|
Đông
|
Nam
|
Trung ương
|
Tây
|
Bắc
|
Quá
trình phát triển
|
Sinh
|
Trưởng
|
Hóa
|
Thu
|
Tàng
|
Tạng
|
Can
|
Tâm,
Tâm bào
|
Tỳ
|
Phế
|
Thận
|
Phủ
|
Đởm
|
Tiểu
trường, Tam tiêu
|
Vị
|
Đại trường
|
Bàng
quang
|
Ngũ thể
|
Cân
|
Mạch
|
Nhục
|
Bì
mao
|
Cốt tủy
|
Ngũ quan
|
Mắt
|
Lưỡi
|
Miệng
|
Mũi
|
Tai
|
Tình
chí
|
Giận
|
Mừng
|
Lo
|
Buồn
|
Sợ
|
III.
Các qui luật của Ngũ hành
Có 4 qui luật hoạt động của Ngũ hành (nói
cách khác, có 4 kiểu quan hệ giữa các sự
vật hiện tượng), gồm có:
A. Trong
điều kiện bình thường:
Có 2 qui luật:
1. Tương sinh (Sinh: hàm ý nuôi dưỡng, giúp
đỡ):
Giữa Ngũ hành có mối quan hệ nuôi dưỡng,
giúp đỡ, thúc đẩy nhau để vận động không ngừng,
đó là quan hệ Tương sinh. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ
hành Tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Trong quan hệ Tương sinh, mỗi Hành đều có mối quan hệ với
hai Hành khác (hai vị trí khác:
Cái-Sinh-Nó và Cái-Nó-Sinh). Người
hình tượng hóa quan hệ tương sinh cho dễ hiểu bằng
hình ảnh quan hệ Mẫu - Tử: chẳng hạn Mộc (Mẹ) sinh Hỏa (Con)…
Thí dụ: vận động chân tay (Mộc) làm cho người
nóng lên (sinh Hỏa)…
2. Tương khắc (Khắc hàm ý ức chế, ngăn trở):
Giữa Ngũ hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế
quân bình, đó là quan hệ Tương khắc. Người
ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương khắc như: Mộc khắc Thổ, Thổ
khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Trong quan hệ tương khắc, mỗi Hành cũng có quan hệ với
hai Hành khác (hjai vị trí khác:
Cái-Khắc-Nó và Cái-Nó-Khắc). Người
xưa hình tượng hóa quan hệ tương khắc thành quan
hệ Thắng – Thua: chẳng hạn Mộc (kẻ thắng) khắc Khổ (kẻ thua).
Thí dụ: khi vận động chân tay (Mộc) thì hoạt động
của tiêu hóa sẽ giảm đi (khắc Thổ)…
Sơ đồ sau đây do người đời sau trình bày để dễ học
hỏi (không hoàn toàn chính xác với
ý nghĩa của Ngũ hành).
Sơ đồ 2: Quan hệ Tương sinh Tương khắc của Ngũ hành (Tương sinh "; Tương khắc 4)
Tương tự như mối quan hệ giữa Âm và Dương, Tương sinh
và Tương khắc không tách rời nhau, nhờ đó
vạn vật mới giữ được thăng bằng trong mối quan hệ với nhau. Thí
dụ: Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ lại sinh Kim khắc Mộc nhờ đó Mộc
và Thổ giữ được thế quan bình, Thổ không bị suy.
Có tương sinh mà không tương khắc thì
không thăng bằng, không phát triển bình
thường được. Có tương khắc mà không tương sinh
thì không thể có sự sinh trưởng biến hóa.
Như vậy, qui luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, về bản
chất, chính là sự cụ thể hóa Học thuyết Âm
Dương.
B. Trong
điều kiện bất thường
Có hai qui luật:
Nếu một lý do nào đó phá vỡ sự thăng bằng
giữa Ngũ hành với nhau, Ngũ hành sẽ chuyển sang trạng
thái bất thường, không còn thăng bằng và
hoạt động theo hai qui luật:
1. Tương thừa (Thừa: thừa thế lấn áp):
Trong điều kiện bất thường, Hành này khắc Hành kia
quá mạnh, khi đó mối quan hệ Tương khắc biến thành
quan hệ Tương thừa. Chẳng hạn: bình thường Mộc khắc Thổ, nếu
có một lý do nào đó làm Mộc tăng
khắc Thổ, lúc đó gọi là Mộc thừa Thổ. Thí
dụ: giận dữ quá độ (Can Mộc thái quá) gây
loét dạ dày (Vị Thổ bị tổn hại).
2. Tương vũ (Vũ: hàm ý khinh hờn):
Nếu Hành này không khắc được Hành kia
thì quan hệ Tương khắc trở thành quan hệ Tương vũ. Chẳng
hạn: bình thường Thủy khắc Hỏa, nếu vì một lý do
nào đó làm Thủy giảm khắc Hỏa (nói
cách khác: Hỏa “khinh lờn” Thủy) thì lúc
đó gọi là Hỏa vũ Thủy. Thí dụ: Thận (thuộc Thủy)
bình thường khắc Tâm (thuộc Hỏa), nếu Thận Thủy suy yếu
quá không khắc nổi Tâm Hỏa sẽ sinh chứng nóng
nhiệt, khó ngủ…
Như vậy, quan hệ bất thường chủ yếu thuộc quan hệ Tương khắc. Có
hai lý do khiến mối quan hệ Tương khắc bình thường trở
thành quan hệ Tương thừa, Tương vũ bất thường.
(1) Một hành nào đó trở nên thái
quá. Thí dụ: Thủy khí thái quá
làm tăng khắc Hỏa; đồng thời cũng có thể khinh lờn Thổ.
(2) Một Hành nào đó trở nên bất cập.
Thí dụ: Thủy khí bất túc làm Thổ tăng khắc
Thủy; đồng thời Thủy cũng bị Hỏa khinh lờn.
Tuy vậy, quan hệ Tương sinh cũng có bất thường, đó
là trường hợp Mẫu bệnh cập tử, Tử bệnh phạm mẫu.
IV. Ứng dụng
vào một số lãnh vực đời sống
A. Ứng dụng
vào việc ăn uống:
- “Trời nuôi người bằng Ngũ khí, Đất nuôi người bằng
Ngũ vị”.
- Người ta phân loại thức ăn theo Ngũ hành dựa vào
màu sắc, mùi vị mà suy ra tác dụng của
món ăn đối với cơ thể. Thí dụ: món ăn chua đi
vào Can, ngọt đi vào Tỳ… (bảng 1). Và sau
đó áp dụng nguyên tắc ăn uống theo qui luật của Ngũ
hành: dùng thức ăn phù hợp với tình
hình sức khỏe của mình sao cho duy trì được thế
quân bình (đối với người khỏe) hoặc tái lập mối
quan hệ quân bình của Ngũ hành trong cơ thể (đối
với người đau ốm). Món ăn đầy đủ Ngũ hành thường tồn tại
rất lâu phong tục ẩm thực (tô phở, nước mắm…). Tránh
tình trạng dùng thái quá một món ăn
nào đó vì có thể hại sức khỏe. Thí
dụ: ăn quá chua hại Can, quá mặn hại Thận; hoặc khi đang
có bệnh về Tỳ (Thổ) nên tránh dùng thức ăn
uống chua (Mộc) để tránh làm hại thêm Tỳ Vị (Mộc
tăng khắc Thổ).
B. Ứng dụng
vào tổ chức công việc, tổ chức sinh hoạt hàng
ngày:
Dựa theo tính chất của từng hành trong Ngũ hành:
Sinh (Mộc), Trưởng (Hỏa), Hóa (Thổ), Thu (Kim), Tàng
(Thủy) và qui luật của Ngũ hành mà tổ chức
công việc hợac sinh hoạt thường ngày. Thí dụ:
- Khởi đầu một ngày, công việc luôn có
tính chất Mộc cần có thời gian để Sinh. Thí dụ:
máy chạy một chút cho trơn máy, người tập thể dục
hít thở để khởi động cho một ngày.
- Kế tiếp là Hỏa (Trưởng): đẩy mạnh tiến độ công việc,
đây là lúc năng suất công việc cao nhất.
- Công việc có kết quả, có sản sinh ra một
cái gì mới mẻ thì công việc mới tồn tại {Thổ
(Hóa)}.
- Khi đã có kết quả cần biết thu lại, rút lui từ
từ về, nghỉ ngơi dần {Kim (Thu)}.
- Và ẩn, chứa lại, nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày mới
{Thủy (Tàng)}, chuẩn bị cho quá trình Sinh Trưởng
Hóa Thu Tàng kế tiếp. Tránh làm ngược lại
hoặc làm rối loạn quá trình đó.
Một thí dụ khác: Tổ chức hội họp: trước tiên cần
có thời gian cho mọi người chuẩn bị, tập trung (Mộc); sau
đó đi vào vấn đề bàn luận (Hỏa); việc bàn
luận đó phải đi đến một kết quả, kết quả hữu ích (Thổ);
rồi có đúc kết lại vấn đề (Kim), ra quyết định tiến
hành công việc và chấm dứt cuộc họp (Thủy). Mối
quan hệ của từng giai đoạn nêu trên cũng có Sinh,
Khắc, Thừa, Vũ. Việc tiến hành một công việc bất kỳ
nào cũng tương tự. Có như vậy công việc mới
thành công vì diễn tiến phù hợp với qui luật
Ngũ hành.
V. Ứng dụng
vào Y học
A. Ứng dụng
vào Triệu chứng học:
Căn cứ vào Bảng qui loại của Ngũ hành, người ta
phân loại triệu chứng bệnh để xem xét mối quan hệ của
các triệu chứng ấy theo qui luật của Ngũ hành. Thí
dụ: can có quan hệ với Đởm, chịu trách nhiệm hoạt động
của gân cơ (chủ cân), tình trạng công năng của
Can thể hiện ra mắt (khai khiếu ra mắt), móng tay móng
chân (vinh nhuận ra móng), có liên quan đến
tính khí giận dữ… Do đó, co giật, mắt đỏ,
móng khô, nóng tính bất thường,… là
triệu chứng của Can, vì Đởm, gân cơ, mắt, móng,
tính khí giận dữ… tất cả đều cùng thuộc
Hành Mộc (xem lại bảng 1).
B. Ứng dụng
vào việc phân tích bệnh và chẩn
đoán:
- Tạng Phủ được qui vào Ngũ hành (bảng 1). Mối tương quan
của Tạng Phủ trong trường hợp bệnh lý được phân
tích theo qui luật Tương thừa – Tương Vũ. Thí dụ:
bình thường Phế Kim khắc Can Mộc để duy trì sự cân
bằng, khi thở quá mức (Phế Thịnh) sẽ gây tê rần
và co rút chân tay (Mộc).
- Học thuyết Ngũ hành giúp truy tìm nguyên
nhân hay gốc phát sinh bệnh ban đầu. Thí dụ: mất
ngủ là chứng của Tâm (Hỏa) có thể do: (1)
chính Tâm gây ra, hay (2) do Tạng Sinh nó
gây ra: Can (Mộc), hay (3) do Tạng nó Sinh gây ra;
Tỳ (Thổ), hay (4) do tạng nó Khắc gây ra; Phế (Kim), hay
(5) do Tạng Khắc nó gây ra: Thận (Thủy).
C. Ứng dụng
vào việc điều trị bệnh:
Điều trị bệnh chủ yếu dựa vào nguyên tắc: “Con hư bổ mẹ,
mẹ thực tả con”. Thí dụ: Phế yếu (Phế Hư) phải làm mạnh
Tỳ Vị lên (Kiện Tỳ) gọi là nguyên tắc Bồi Thổ sinh
Kim.
Nguyên tắc này được ứng dụng nhiều nhất trong lãnh
vực Châm cứu.
D. Ứng dụng
vào việc phân loại, bào chế và sử dụng thuốc:
Người xưa dựa vào màu sắc và mùi vị của
thuốc mà phân loại thuốc theo Ngũ hành và từ
đó suy ra tác dụng của thuốc đi vào Tạng Phủ tương
ứng. Thí dụ: thuốc vị chua, màu xanh đi vào Can,
vị ngọt, màu vàng đi vào Tỳ. Người xưa cũng dựa
vào Ngũ hành để tìm thuốc mới và bào
chế thích hợp để biến đổi tính năng của thuốc. Thí
dụ: sao thuốc với giấm để thuốc đi vào Can; sao với đường, mật
để vào Tỳ; tẩm muối để đi vào Thận; sao với gừng để
vào Phế, sao cho vàng để vào Tỳ, chế cho đen để
vào Thận…
Tóm lại, Học thuyết Ngũ hành là học thuyết về mối
quan hệ giữa mọi sự vật với nhau. Muốn nghiên cứu bất kỳ một sự
vật, một hiện tượng gì luôn phải biết đặt trong mối quan
hệ của nó với những sự vật hiện tượng xung quanh nó. Điều
quan trọng trong mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng
chính là quá trình Sinh và Khắc chứ
không phải là con số 5 hoặc cái tên Mộc Hỏa
Thổ Kim Thủy. Đó mới thực sự là tinh thần của Học thuyết
Ngũ hành.
Luận Ngũ Hành
Nguồn Gốc
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành |
Thuyết Âm
Dương - Ngũ Hành xuất phát từ Kinh Dịch cổ. Nguồn gốc của
thuyết này là từ một mô hình tối cổ về
các con số gọi là Hà Đồ. Tương truyền do trời ban
cho vua Phục Hy, một ông vua thần thoại của Trung Hoa,
cách đây khoảng 4000 năm. Khi Ngài đi tuần
thú Phương Nam, qua sông Hoàng Hà, bỗng thấy
một con Long Mã hiện lên, trên lưng nó
có những chấm đen trắng.
Khi về Ngài mới phỏng theo mà vẽ lại thành một
bảng ký hiệu 10 số đếm bằng các chấm đen và trắng,
xếp thành hai vòng trong và ngoài, theo
đúng 4 phương: Nam, Bắc, Đông, Tây. Ở chính
giữa là hai số 5 và 10. Ngài gọi là
Hà Đồ, tức là bức đồ trên sông Hoàng
Hà (chỉ là hình vẽ chứ không có chữ
vì sự phát minh thuộc thời chưa có chữ viết).
Bảng Hà Đồ chia 10 số đếm
thành 2 loại số đối xứng nhau:
Số Dương, số Cơ, số Trời: 1, 3, 5, 7, 9 (chấm trắng).
Số
Âm, số Ngẫu, số Đất: 2, 4, 6, 8, 10 (chấm đen).
Số Sinh: 1,
2, 3, 4, 5.
Số
Thành: 6, 7, 8, 9, 10.
Tuy nhiên, trong Hà Đồ không phải chỉ có
Âm Dương, bởi vì chỉ riêng cơ chế Âm Dương
thì không đủ giải thích mọi biến thiên phức
tạp của vũ trụ. Trong đồ hình còn có cả nội dung
tương tác của 10 số đếm, thông qua sự định vị 5 con số đầu
tiên là 5 con số Sinh, đại diện cho 5 yếu tố vận động
trong vũ trụ, đã được ghi rõ trong bài ca quyết:
Thiên nhất sinh Thủy,
Địa lục thành chi.
Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi.
Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành chi.
Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành chi.
Thiên ngũ sinh Thổ, Địa thập thành chi.
Nghĩa
Là:
Số Trời 1 sinh Thủy, thành số Đất 6.
Số Đất 2 sinh Hỏa, thành số Trời 7.
Số Trời 3 sinh Mộc, thành số Đất 8.
Số Đất 4 sinh Kim, thành số Trời 9.
Số Trời 5 sinh Thổ, thành số Đất 10.
Như vậy Ngũ Hành đã được định
cùng với 5 cặp số Sinh Thành ra chúng, có
vị trí Tiên Thiên theo đúng các hướng
của các cặp số:
1-6: Hành Thủy,
phương Bắc.
2-7: Hành Hỏa, phương
Nam.
3-8: Hành Mộc, phương
Đông.
4-9: Hành Kim, phương
Tây.
5-10: Hành Thổ, ở Trung
Tâm.
Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khi tương
tác lẫn nhau cũng phải theo cơ chế hai chiều đối xứng là
Âm và Dương, tức cơ chế Tương Sinh và Tương Khắc.
Đây là tinh thần căn bản của thuyết Ngũ Hành. Theo
đó cứ hai Hành đứng kề cận nhau thì sinh cho nhau,
luân chuyển mãi không ngừng, các Hành
cách nhau thì khắc chế nhau, và cứ thế mà
luân lưu mãi, biểu thị cho triết lý cao siêu
của sự đổi thay, biến dịch của vũ trụ tự nhiên.
|
Hành Mộc
gọi là Phu Hòa, vì nó phân bố
ra khí ôn hòa làm cho vạn vật được nẩy sinh
tươi tốt.
Hành Hỏa gọi
là Thăng Minh, có nghĩa là bừng
sáng, có khí thịnh trưởng làm cho vạn vật
được phát triển.
Hành Thổ gọi
là Bị Hóa, vì nó đầy đủ khí
hóa sinh vạn vật, làm cho vạn vật được đầy đủ hình
thể.
Hành Kim gọi
là Thẩm Bình, vì nó phát ra
khí yên tĩnh, hòa bình, làm cho vạn
vật kết quả.
Hành Thủy gọi
là Tĩnh Thuận, vì có khí tĩnh
mà nhu thuận làm cho vạn vật được bế tàng,
gìn giữ.
Quan hệ tương sinh nghĩa là giúp cho nhau lớn hoặc sinh
ra nhau. Quan hệ tương khắc là ức chế, làm thiệt hại
nhau, nhưng phải biểu hiện cái ý quân bình
và giữ gìn lẫn nhau giữa các Hành. Quan hệ
tương sinh và tương khắc nếu thái quá lại
làm cho sự biến hóa bị trở ngại khác thường
thành ra thái quá hoặc bất cập.
Hành Mộc bất cập
được gọi là Ủy Hòa, nghĩa là thiếu
khí ôn hòa sẽ làm cho vạn vật rũ rượi,
không phấn chấn.
Hành Hỏa bất cập
được gọi là Phục Minh, nghĩa là thiếu khí
ấm áp làm cho vạn vật ảm đạm, không sáng.
Hành Thổ bất cập
gọi là Ty Giám, nghĩa là không
có khí hóa sinh, sẽ làm cho vạn vật yếu ớt,
không có sức.
Hành Kim bất cập
gọi là Tòng Cách, nghĩa là
không có khí thu liễm, làm cho vạn vật trở
nên mềm giãn, không có sức đàn hồi.
Hành Thủy bất
cập gọi là Hạc Lưu, nghĩa là không
có khí phong tàng dấu kín, làm cho
vạn vật bị khô queo.
Hành Mộc
thái quá thì gọi là Phát Sinh,
do
sự khuếch tán khí ôn hòa quá sớm,
làm cho vạn vật sớm phát dục.
Hành Hỏa
thái quá gọi là Hách Hy, do khuếch
tán hỏa khí mãnh liệt, làm cho vạn vật
nóng nảy chẳng yên.
Hành Thổ
thái quá gọi là Đơn Phụ, do có
khí nồng hậu rắn chắc, làm cho vạn vật không thể
thành hình.
Hành Kim
thái quá gọi là Kiên Thành,
do có khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay thẳng,
không có sức nhu nhuyễn.
Hành Thủy
thái quá gọi là Lưu Diễn, do có
khí đầy tràn làm cho vạn vật phiêu lưu
không thể về chỗ.
Do đó 2 hệ thống tương sinh và tương khắc không tồn
tại đơn độc, biệt lập. Trong tương khắc đã có ngụ
ý tương sinh và ngược lại, để vạn vật cùng tồn tại
và phát triển. Bởi vì vũ trụ không thể
có sinh mà không có khắc, không thể
có khắc mà không có sinh. Không
có sinh thì vạn vật không nảy nở, không
có khắc thì sự phát triển quá độ sẽ
có hại.
|
Ngũ Hành
Tương Sinh
Và Tương Khắc
|
|
Thiên Can Tương Sinh
Và Tương Khắc
|
Âm
Xin Quý Vị Vui Lòng Đưa
Mũi Tên Vào Hình Của Can Và Chi
Để Xem Tương Sinh Và Tương Khắc Của Thiên Can Cùng
Ngũ Hành.
|
Mười
Thiên Can Ngũ Hợp
|
|
|
Mười Hai Địa Chi Lục Hợp
|
|
Mười Hai Địa Chi Tương Xung
|
|
Mười Hai Địa Chi Tương Hại
|
Xin Quý Vị Vui Lòng Đưa Mũi Tên Vào
Hình Của Can Và Chi
Để Xem Ý Nghĩa Của Từng Thiên Can Cùng Địa Chi.
|
Mười Hai
Địa Chi Tương Hình
|
|
|
Mười Hai Địa Chi Hàm Chứa Nhân
Nguyên Ngũ Hành
|
Xin Quý Vị Vui Lòng Đưa Mũi Tên Vào
Hình Của Can Và Chi
Để Xem Ý Nghĩa Của Từng Cung Cùng Địa Chi.
|
Đem 10 Thiên Can phối hợp với 12 Địa Chi, Can
Dương với Chi Dương, Can Âm với Chi Âm biến hóa
thành một chu kỳ 60 năm chẵn, từ Giáp Tý đến
Quý Hợi để ghi Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Tức
là những chu kỳ thời gian tuần hoàn theo 60 đơn vị Can -
Chi, trong đó có 30 đơn vị thuộc Dương, 30 đơn vị thuộc
Âm. Mỗi cặp đơn vị một thuộc Dương và một thuộc Âm
đi liền nhau có cùng một Hành gọi là Ngũ
Hành Nạp Âm.
Việc sáng tạo Ngũ Hành Nạp Âm cho vòng
Giáp Tý phải trải qua quá trình tính
toán phức tạp, nên ngày nay các nhà
làm lịch cũng như những nhà trạch cát đều sử dụng
bảng tính Niên Mệnh đã được soạn sẵn từ xưa để lại.
|
Sự Suy Vượng Của Ngũ
Hành
|
Sự suy vượng của Ngũ Hành được chia làm
5 giai đoạn, tương ứng với 5 giai đoạn của thời gian trong năm.
|
Hành |
Vượng |
Tướng |
Hưu |
Tù |
Tử |
Mộc |
Mùa Xuân |
Mùa Đông |
Mùa Hạ |
Tứ Quý |
Mùa Thu |
Hỏa |
Mùa Hạ |
Mùa Xuân |
Tứ Quý |
Mùa Thu |
Mùa Đông |
Thổ |
Tứ Quý |
Mùa Hạ |
Mùa Thu |
Mùa Đông |
Mùa Xuân |
Kim |
Mùa Thu |
Tứ Quý |
Mùa Đông |
Mùa Xuân |
Mùa Hạ |
Thủy |
Mùa Đông |
Mùa Thu |
Mùa Xuân |
Mùa Hạ |
Tứ Quý |
|
Vượng là giai
đoạn thịnh nhất, phát triển mạnh nhất.
Tướng là giai
đoạn thịnh vừa, phát triển chậm hơn.
Hưu là giai đoạn
nghỉ ngơi, không còn phát triển.
Tù là
giai đoạn bị suy giảm, sa sút.
Tử là giai đoạn
chết, hoặc hoàn toàn bị khắc chế.
Ngũ
Hành
Và Bát Quái
|
Nguyên gốc chữ Quái là chữ Quải,
có nghĩa là "treo". Thuở xưa người Trung Hoa dùng
8 thanh tre, trên mỗi thanh tre có ghi ký hiệu rồi
đem treo ở 8 cột theo 8 hướng, từ đó mà thành
tên Bát Quái. Bát Quái Gồm Có
Tiên Thiên Bát Quái Và Hậu Thiên
Bát Quái:
|
|
|
|
Bảng
Quy Loại Ngũ Hành
|
Sự biểu hiện, liên hợp, cùng ứng dụng của
Ngũ Hành với thiên nhiên, con người, vạn vật rất lớn
lao không thể nào tìm hiểu và trình
bày được hết. Bảng liệt kê sau đây chỉ nói
lên phần nào căn bản tương quan giữa Ngũ Hành
cùng mọi vật như sau:
|
Ngũ
Hành |
Mộc |
Hỏa |
Thổ |
Kim |
Thủy |
Bát
Quái |
Chấn, Tốn |
Ly |
Cấn, Khôn |
Đoài, Càn |
Khảm |
Cửu
Cung |
3, 4 |
9 |
5, 8, 2 |
7, 6 |
1 |
Thiên
can |
Giáp, Ất |
Bính, Đinh |
Mậu, Kỷ |
Canh, Tân |
Nhâm, Quý |
Địa Chi |
Dần, Mão |
Tỵ, Ngọ |
Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi |
Thân, Dậu |
Hợi Tý |
Mùa |
Xuân |
Hạ |
Cuối Hạ |
Thu |
Đông |
Thời
Gian |
Rạng Sáng |
Giữa Trưa |
Chiều |
Tối |
Nửa Đêm |
Phương
Hướng |
Đông |
Nam |
Trung Tâm |
Tây |
Bắc |
Khí
Hậu |
Gió |
Nóng |
Ẩm |
Khô |
Lạnh |
Ngũ
Khí |
Phong |
Thử |
Thấp |
Táo |
Hàn |
Ngũ
Âm |
Giốc |
Chủy |
Cung |
Thương |
Vũ |
Ngũ Du |
Tỉnh |
Huỳnh |
Du |
Kinh |
Hợp |
Ngũ
Nguyên |
Nguyên Tính |
Nguyên Thần |
Nguyên Khí |
Nguyên Tình |
Nguyên Tinh |
Ngũ Đức |
Nhân |
Lễ |
Tín |
Nghĩa |
Trí |
Ngũ Vật |
Du Hồn |
Thức Thần |
Vọng Yù |
Hồn Phách |
Trọc Tinh |
Ngũ
Tinh |
Tuế Tinh |
Huỳnh Tinh |
Trấn Tinh |
Thái Bạch |
Thần Tinh |
Hình
Thể |
Trụ Thẳng Đứng |
Chóp Nhọn |
Bằng Phẳng |
Tròn |
Uốn Lượn |
Trạng
Thái |
Sinh |
Trưởng |
Hóa |
Thâu |
Tàng |
Màu
Sắc |
Xanh |
Đỏ |
Vàng |
Trắng |
Đen |
Cơ Thể |
Gân |
Mạch |
Thịt |
Da Lông |
Xương |
Ngũ
Quan |
Mắt |
Lưỡi |
Miệng |
Mũi |
Tai |
Tạng |
Gan |
Tim |
Tỳ |
Phổi |
Thận |
Phủ |
Mật |
Ruột Non |
Dạ Dày |
Ruột Già |
Bàng Quang |
Ngũ
Tân |
Bùn |
Mồ Hôi |
Nước Dãi |
Nước Mắt |
Nước Miếng |
Ngũ Vị |
Chua |
Đắng |
Ngọt |
Cay |
Mặn |
Cảm
Xúc |
Giận |
Mừng |
Lo |
Buồn |
Sợ |
Giọng |
Hét |
Nói |
Ca |
Khóc |
Rên |
|
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành xuất hiện như một học thuyết
triết học bao trùm mọi phương diện trong vũ trụ. Âm Dương,
Ngũ Hành cùng song song tồn tại để bổ khuyết, chế
hóa, cùng thúc đẩy sự sinh trưởng, biến hóa
vô cùng của vạn vật.
Trải qua nhiều thời đại, các bậc Thánh Nhân
đã dày công nghiên cứu, sáng tạo,
cùng vận dụng thuyết Ngũ Hành vào những vấn đề rất
lớn rộng, có liên quan mật thiết đến con người như
thiên văn, lịch pháp, y học, dược học, võ học, thời
sinh học, định chế xã hội, văn hóa, phong thủy, địa
lý, chiêm tinh, bói toán v.v... Nên
với phần Ngũ Hành Luận trên đây, VietShare.com hy
vọng giới thiệu đến Quý
Vị một vài nét tổng quát và căn bản của nền
minh triết Đông Phương cùng những ứng dụng của thuyết
Âm Dương Ngũ Hành trong các lãnh vực
nhân sinh.
|
Nguồn:
http://tuvi.vietshare.com/dialy/nguhanh.asp
Quan hệ với các lĩnh vực khác
Ngũ hành |
Mộc |
Hỏa |
Thổ |
Kim |
Thủy |
Số Hà Đồ |
3 |
2 |
5 |
4 |
1 |
Cửu Cung |
3,4 |
9 |
5,8,2 |
7,6 |
1 |
Thời gian trong ngày |
Rạng sáng |
Giữa trưa |
Chiều |
Tối |
Nửa đêm |
Giai đoạn |
Sinh Dương cực |
Hoàn chỉnh Dương cực |
Âm-Dương cân bằng |
Sinh Âm cực |
Hoàn chỉnh Âm cực |
Năng lượng |
Nảy sinh |
Mở rộng |
Cân bằng |
Thu nhỏ |
Bảo tồn |
Bốn phương |
Đông |
Nam |
Trung tâm |
Tây |
Bắc |
Bốn mùa |
Xuân |
Hạ |
Chuyển mùa (mỗi 3 tháng) |
Thu |
Đông |
Thời tiết |
Gió (ấm) |
Nóng |
Ẩm |
Mát (sương) |
Lạnh |
Màu sắc |
Xanh Lục |
Đỏ |
Vàng |
Trắng/Da Cam |
Đen/Xanh lam |
Thế đất |
Dài |
Nhọn |
Vuông |
Tròn |
Ngoằn ngèo |
Trạng thái |
Sinh |
Trưởng |
Hóa |
Thâu |
Tàng |
Vật biểu |
Thanh Long |
Chu Tước |
Kỳ Lân |
Bạch Hổ |
Huyền Vũ |
Mùi vị |
Chua |
Đắng |
Ngọt |
Cay |
Mặn |
Cơ thể |
Gân |
Mạch |
Thịt |
Da lông |
Xương tuỷ não |
Ngũ tạng |
Can (gan) |
Tâm (tim) |
Tỳ |
Phế (phổi) |
Thận |
Lục phủ |
Đởm (mật) |
Tiểu trường (ruột non) |
Vị (dạ dày) |
Đại trường (ruột già) |
Bàng quang |
Ngũ khiếu |
Mắt |
Lưỡi |
Miệng |
Mũi |
Tai |
Ngũ tân |
Bùn phân |
Mồ hôi |
Nước dãi |
Nước mắt |
Nước tiểu |
Ngũ đức |
Nhân |
Lễ |
Tín |
Nghĩa |
Trí |
Xúc cảm |
Giận |
Mừng |
Lo |
Buồn |
Sợ |
Giọng |
Ca |
Cười |
Khóc |
Nói (la, hét, hô) |
Rên |
Thú nuôi |
Chó |
Dê/Cừu |
Trâu/Bò |
Gà |
Heo |
Hoa quả |
Mận |
Mơ |
Táo tàu |
Đào |
Hạt dẻ |
Ngũ cốc |
Lúa mì |
Đậu |
Gạo |
Ngô |
Hạt kê |
Thập can |
Giáp, Ất |
Bính, Đinh |
Mậu, Kỷ |
Canh, Tân |
Nhâm, Quý |
Thập nhị chi |
Dần, Mão |
Tỵ, Ngọ |
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi |
Thân, Dậu |
Tý, Hợi |
Âm nhạc |
Mi |
Son |
Đô |
Rê |
La |
Thiên văn |
Mộc Tinh (Tuế tinh) |
Hỏa Tinh (Huỳnh tinh) |
Thổ Tinh (Trấn tinh) |
Kim Tinh (Thái Bạch) |
Thủy
Tinh (Thần tinh) |
Bát quái ¹ |
Tốn, Chấn |
Ly |
Khôn, Cấn |
Càn, Đoài |
Khảm |
Hoà
Thuận là đạo
anh em
Hiếu Thảo là đạo
làm con trong nhà
Thủy Chung là đạo vợ
chồng
Ấy
là Gia Đạo nằm
lòng người ơi ...
Trang mạng Lê Quang Đẳng
Trang Luận Ngũ Hành
email: info@lequangdang.net
www.lequangdang.net
|