Việt Nam Văn Hiến

Năm Thứ 4888




Trang Mạng
Lê Quang Đẳng


www.lequangdang.net



Gia Đạo








Đề Mục


  1- Chín Điều Tâm Niệm
  2- Gia Đao
  3- Dạy Con ở Cho Có Đức
   
4- Phúc Đức










Chín Điều Tâm Niệm




Một là Thờ Kính ông bà

Hai thì Hiếu Thảo mẹ cha mới là

Ba là anh em Thuận Hoà

Bốn là chòm xóm vào ra Kính Nhường

Năm là Cần Kiệm tề gia

Sáu thì Cẩn Thận là bùa hộ thân

Bảy là Lòng Nóng phải dằn

Tám là Kềm Chế để răng lòng tà

Chín là phải học Ý Cha

Thành người Nhân Đức mới là con ngoan



Lê Văn Bảy
20/10/1987




 Dẫn Giải

1-  Thờ Kính: Đối với Ông Bà thì phải Thờ Kính, thờ là lễ nghi tôn kính ngươì đã khuất bằng cách lập một bàn thờ có đủ nhan đèn, hoa, quả, bánh, cơm ...để tỏ lòng kính quý. Phải thường xuyên nhan khói và thăm viếng mộ phần cuả tổ tiên. Mỗi năm làm lễ giỗ để tỏ lòng hiếu kính và biết ơn, cùng nhắc nhở con cháu về những kỷ niệm mà đó là dòng linh lực lưu hành trong mỗi thành viên của gia tộc. Nhờ vào linh lực nầy làm một chất keo gắn bó các thế hệ tiếp nối từ nhiều đời để tồn tại và hưng thịnh.

2- Hiếu Thảo: Hiếu là kính yêu và biết ơn. Thảo là rộng lòng đối xử, biết chia xẻ và nhường nhịn cho người khác.
Đối với Cha Mẹ thì phải Hiếu Thảo là phải biết kính yêu, biết đền đáp công ơn sanh thành và dưỡng dục ; Biết chăm sóc cha mẹ từng miếng cơm, manh áo, phải nói năng lễ phép và kính trọng. Phải thăm viếng thường ngày, nếu ở xa thì phải thăm hỏi qua điện thoại hay ít nhất là về thăm một lần trong năm.

3- Thuận Hoà: Trong quan hệ gia đình thuận hoà là gia đình êm ấm, không xích mích, không cải cọ nhau. Đối với anh, chị và em thì phải thuận hoà, phải biết kính trên, nhường dưới, thương yêu và đùm bọc nhau. Phải giúp đỡ nhau khi hoạn nạn hay bần hàn.

4- Kính Nhường: Đối với lối xóm hay ngươì lân cận thì phải biết kính trọng và nhường nhịn họ, không được hơn thua hay tranh giành nhau trong sinh hoạt thường ngày, bởi vì ngươì xưa đã nói : " Bà con xa không bằng láng giềng gần..."

5- Cần Kiệm tề gia:
Cần là cần mẫn, siêng năng làm việc, luôn năng động mà không làm biếng.
Kiệm là tiết kiệm, thí dụ kiếm được 100 đồng chỉ tiêu sài 40 đồng còn tiết kiệm được 60 đồng...Ngươì tây phương có câu: "It does not a matter how much you earn but it is a serious matter how much you save ..."
Có nghiã là: Vấn đề nghiêm trọng là tiết kiệm chớ không phải là kiếm được nhiều tiền. Từ đây cho thấy biết tiết kiệm thì khá giả, thí dụ: anh hai làm trong vòng 20 năm kiếm được 2 triệu đô mà không tiết kiệm được một đô nào hết thì vẫn nghèo hơn anh tư, trong khi đó anh tư kiếm được ít hơn anh hai 50% thì sau 20 năm kiếm được 1 triệu mà biết tiết kiệm nên anh tư dành được 500 ngàn đô sau 20 năm làm việc, còn anh hai không để dành được một đô nào hết trong khi đó anh hai kiếm tiền nhiều hơn anh tư gắp đôi ...!

Tề gia: Ngày xưa Đức Khổng Tử đã dạy là làm một ngươì quân tử thì phải biết: '' Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ .." Có nghĩa là sau khi học hành lập thân, thành tài, nên danh rôì thì lập gia đình và phải biết quản lý gia đình từ vợ, con cái, việc làm cuả vợ chồng, việc học cuả con và kinh tế (một con gà bươi mà nhiều con gà mổ thì không khá nổi...!) Nếu không tề gia được cả đơì lận đận, vất vã và nghèo khó ...! Căn bản cuả tề gia là siêng năng làm việc cả hai vợ và chồng, phải biết tiết kiệm để lo cho con cái học hành và phòng khi có đau yếu, bệnh hoạn mà chạy thuốc thang... không phải bị lâm cảnh nợ nần , là Cần Kiệm vậy.

6- Cẩn Thận: Phaỉ luôn luôn cẩn thận thì sự an toàn luôn được bên mình như một ngươì có buà mang theo trong người ...Lái xe cẩn thận thì không bao giờ gặp tai nạn...Đi bộ băng ngang qua đường cẩn thận nhìn phải, nhìn trái, không thấy xe tới rồi mới đi thì không bao giờ có tai nạn. Nói năng cẩn trọng thì không bao giờ có chuyện không hay đến " Hoạ tùng khẩu xuất .." Có nghiã là họa từ miệng mà tới ...Ngươì thợ máy trong xưởng cẩn thận thì không bị tai nạn lao động.

7- Lòng Nóng: Hầu như ai cũng có tánh nóng khi còn trẻ, không dằn được sự nóng nãi thì dễ làm chuyện bất thiện và bất nhân ...Trong kinh Phật có câu: " Nhất tâm sân hận khởi, bá vạn chướng môn khai ..." Có nghiã là một lần nóng giận thì có đến một triệu (bá vạn = 100 x 10000) caí nghiệp chướng chờ mở cửa .!
Dằn được sự nóng giận không phải dễ nhưng nếu có ý dằn thì từ từ sẽ chuyễn caí tánh nóng thành cái tâm bình được khi tuổi đời chồng chất hay bước tới lục tuần thì cũng phải được thôi! Dằn được caí nóng nãi thì tránh được nhiều điều như sau:
(1) Tai qua, nạn khỏi
(2) Không bị động trước cảnh khích tướng hay trêu trọc
(3) Không bị
vỡ mạch máu nảo (stroke)
(4) Áp huyết máu không bị lên, không bị nhồi máu cơ tim

8- Kềm Chế: Lòng tà là ý bất thiện, bất chánh như có ý ăn cấp, ăn cướp hay dâm ô. Kềm chế được những ý nghĩ không lương thiện, không chân chánh, thiếu thanh cao, thiếu trong sáng.
Kềm chế cái tham lam và dục vọng của lòng người như không hút thuốc, không uống rượu, không làm biếng. Có biết kềm chế thì trình độ tâm linh mới tinh tiến, vì ma và quỷ luôn luôn trực chờ trong ta để làm chuyện bất nhân, bất nghĩa và loạn luân.
Kềm chế là cây cầu nối liền giữa thánh nhân và tiểu nhân, giữa ma qủy và thánh thần. Biết kềm chế thì thành thánh nhân, là thánh thần còn ngược lại là ma qủy.
Kềm chế là điêù kiện ắt có và đủ cuả một con người tốt trong đạo sống cuả gia tộc vậy.

9- Nhân Đức: Là lòng thương người và tánh hiền hoà. Thương ngươì và giúp người; Giúp người là làm điều tốt lành, lương thiện cho ngươì, ban ơn và bố thì cho ngươì mà không mong cầu đến đáp. Đối đãi nhau trong tình người và nghiã làm ngươì một cách chân thành và lương thiện là nhân đức, là gia đạo cuả nhà Lê vậy...


 

Lê Quang Đẳng








































Dạy Con Ở Cho Có Đức

"...Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đứcnhân,

Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.

Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.

Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.

Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây " cần kiệm"   gọi là làm duyên.
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.

Tiếng rằng: ngày đói tháng đông,
Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,

Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.

Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.

Hứng tay dưới với tay trên,
Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như  tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.

Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.

Nói lời lại nuốt lấy lời,
Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.

Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!

Thấy người mà phải lo ta,
Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.

Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.

Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi..."

 

Trích trong Gia Huấn Ca cuả Nguyễn Trãi


 

 

 




Phúc Đức


chữ Phúc           chữ Đức

   Giếng mối cuả gia đạo là Phúc Đức.
   Nền tảng cuả gia đạo là Phúc Đức.
   Trọng tâm cuả gia đạo là Phúc Đức.
   Khởi điểm,
Khởi động và khởi hành cuả gia đạo là Phúc Đức.
   Cứu cánh cuả gia đạo là Phúc Đức..


Phước hay là Phúc có nghiã là gì ?

Trang mạng www.olddict.com giải thích:
@phúc đức
- I. dt. Điều may mắn, do đời trước ăn ở tốt lành để lại cho đời sau: để lại phúc đức cho con cháu nhờ có phúc đức tổ tiên để lại. II. tt. 1. Hiền lành, hay làm điều tốt cho người khác: con người phúc đức một bà lão phúc đức ăn ở phúc đức. 2. May mắn, tốt lành rất lớn: được như bây giờ là phúc đức lắm rồi cháu ạ.

Theo tự diển Hán Việt cuả Thiều Chửu:

 PHÚC: Những sự tốt lành goị là Phúc. Kinh Thi chia ra làm năm (5) phúc: (1) Giàu  (2)  Yên lành  (3) Thọ  (4) Có đức tốt  (5)  Vui hết tuổi trời.

 ĐỨC:  Đức có bốn (4) nghiã như sau:  (1) Đạo đức.  Cái đạo để lập thân goị là Đức, như Đức hạnh , Đức tính  (2) Thiện . Làm thiện, làm lành cãm hoá tới ngươì goị là Đức chính hay là Đức hoá.  (3) Ơn. Ơn cho no say, vì thế nên cám ơn cũng goị là Đức.  (4) Cái khí tốt (vượng) trong bốn muà, như muà Xuân thì goị là thịnh Đức tại Mộc.


 
    Phúc đức có nghiã là hiền lành, tánh tốt, giúp ngươì, ban ơn và may mắn.
   Phước đức còn có nghiã là điều may mắn do đời trước ăn ở tốt, hiền lành, ban ơn, bố thí để lại cho đời sau. Người ta thường noí là:" Làm phước và ăn ở cho có đức". Có nghiã là làm điều tốt lành như giúp người trong lúc nghéo khó, hoạn nạn từ vật chất đến tinh thần mà không đòi hỏi một điều kiện nào hết.

   Ban ơn hay bố thí có nghiã là cho đi không điều kiện, không mong cầu sự đền ơn, đáp nghiã naò hết g có nghiã là tạo đức và làm phước.



 "...Ở cho có đứcnhân,

Mới mong đời trị được ăn lộc trời.."

  Nguyễn Trãi


  "..Chín là phải học Ý Cha
Thành người Nhân Đức mới là con ngoan..."

Lê Văn Bảy



  
   Điều lành phải được khởi động từ cái tâm thánh thiện và khởi hành từ con ngươì nhân ái, muốn được vậy thì từ sự suy nghĩ đến hành động không cho bản thân mà cho tha nhân, sống cho ngươì, làm cho ngươì và luôn luôn giúp người là làm phước và tạo đức, là thực hành gia đạo cuả Lê tộc vậy.

   Dương Đức và Âm Đức:

  Âm Đức là những việc làm thiện lành, tốt đẹp, ban ơn và bố thí cuả ngươì đời trước thuộc về quá khứ nên được goị là âm đức.
  Âm đức còn một nghiã thứ hai là chổ an táng hay noí cách khác là mộ phần cuả ngươì đời trước. Một nơi an nghĩ nghìn thu cuả tiền nhân tại môt cuộc đất tốt, cao raó và khang trang (không noí đến long mạch ở đây) mà có được sự chăm sóc sạch sẻ và đẹp đẻ . Được con, cháu, chắt ... thường lui tới thăm viếng là có được một Âm Đức tốt.
  Một âm đức tốt là ngươì đời trước lúc còn sống làm phúc và tạo đức. Khi chết có được một nơi an nghĩ cao ráo, khang trang, đẹp đẻ, nơi mà con, cháu, chắt và chút thường xuyên thăm viếng.

  Dương Đức là những việc làm tốt đẹp, cao thượng, thánh thiện, ban ơn và bố thí cuả ngươì còn đang sống.
  Dương đức là chuỗi phúc đức cuả đời trước là nối kết cuả âm đức và cũng là chuẩn âm đức cuả đời sau. Làm phúc và tạo đức đơì nầy là xây phúc và dựng đức cho đơì sau.
  Hưởng phúc và thọ đức bây giờ mà không tạo phúc và làm đức là khánh kiệt phúc đức, là tiêu vong sư hưng thịnh cuả đời sau.

  Nhìn vaò sự hưng thịnh hay sang hèn cuả một gia đình noí lên được âm đức cuả gia đình đó. Sự giàu sang phú quý cuả đời nầy là nhờ vào sự tạo đức và làm phước ở đời trước. Nên dương đức và âm đức là nhân quả  cuả một gia đình hay gia tộc là một định luật không thể tránh khoỉ.

  Phúc Đức là tâm niệm và hành vi cuả tất cả thành viên trong Lê tộc cần phải được thực hành thường ngày để ngàn sau còn hưng thịnh vậy.






  Chữ Phúc tiêu biểu cho may mắn sung sướng, thường dùng trong từ ngữ hạnh phúc. Người Á Đông, từ lâu đã có nhiều hình tượng biểu thị chữ phúc, mà ngày nay người ta còn thấy trong nhiều vật trang trí, trong kiến trúc, và cả trên y phục.

   Từ đời nhà Minh (1368-1644), người ta thường khắc trên cánh cửa chính một chữ phúc lớn như để đón đợi hạnh phúc tới nhà, đúng như lời cầu mong của người Trung Quốc: 福 星 高 詔, phúc tinh cao chiếu, nghĩa là sao phúc từng cao chiếu xuống hay câu: 多 福 多 壽 , đa phúc đa thọ, nghĩa là nhiều may nhiều tuổi thọ, thường dùng để chúc nhau. Ngoài hình con giơi tượng trưng cho chữ phúc, người ta còn dùng trái phật thủ hay tranh ảnh vị phúc thần và vị môn thần dán trên cửa hay khắc trên mặt cửa vào đình chùa dinh thự 
&nbs
      Ngày Tết nguyên đán, người Trung Quốc có tục treo thuận hoặc treo ngược chữ Phúc ở trên cửa. Có hai truyện truyền kỳ giải thích truyện này. Truyện thứ nhất là một truyện từ đời nhà Minh (1368-1644) về chữ phúc viết thuận. Một hôm Minh Thái Tổ, Chu Nguyên Chương, vi hành tới một thị trấn nhỏ. Nhà vua thấy một đám đông người cười rỡn bên một bức họa. Tới gần, nhà vua thấy đó là một bức vẽ một bà già có bàn chân lớn quá khổ, tay ôm một trái dưa hấu. Nhà vua nhận ra bà già này chính là hoàng hậu. Nổi giận, nhà vua sai quân hầu theo dõi từng ngưòi trong đám người hỗn sược này về tận nhà, và viết chữ phúc trên cửa, để ngày mai nhà vua sẻ phái quân tời bắt. Trở về hoàng cung, nhà vua kể lại truyện này cho hoàng hậu nghe. Hoàng hậu vốn sẵn từ tâm, bà khẩn sai quân hầu hỏa tốc tới thị trấn này viết chữ phúc trên cửa mọi nhà dân. Sáng mai quan quân tới sau, không còn cách nào nhận ra được những ai là kẻ bị nhà vua cho lệnh tới bắt. Từ đó, người ta tin rằng chữ phúc, viết có thể dùng làm bùa hộ mạng cho mọi người.

       Truyện thứ hai là truyền thoại từ đời nhà Thanh (1661-1911) về chữ phúc viết hay treo ngược. Chiều ba mươi tết, quan phủ lý của thái từ Cung Thân, cho lệnh treo chữ phúc trên cửa những chính ra vào đông cung. Có một tên lính hầu không biết chữ, treo ngược chữ Phúc. Thái từ nhìn thấy, nổi giận định trừng phạt tên lính hầu này. Quan phủ lý vốn là người giầu từ tâm, liền nghĩ ra cách gỡ tội cho tên lính hầu. Quan còn biết lòng thái tử khao khát may mắn để sớm lên ngôi báu. Ngài tâu thái tử: chữ phúc treo ngược là chữ phúc đảo, 倒, theo tiếng Trung Quốc đồng âm với chữ đáo 到, nghĩa là tới. Vậy chữ phúc treo ngược là điềm báo phúc đang tới. Thái tử hài lòng, không những không trừng phạt tên lính hầu mà còn trọng thưởng qua phủ lý và ban cho mỗi tên lính hầu năm lạng bạc. Quả là phúc đã tới với đám người này trong đêm trừ tịch đó.

 
Trích từ: http://dongdiepnhung.com



Lê Quang Đẳng sưu tầm






 


Hoà Thuận là đạo anh em
Hiếu Thảo là đạo làm con trong nhà
Thủy Chung là đạo vợ chồng
Ấy là Gia Đạo nằm lòng người ơi ...

 



Trang mạng Lê Quang Đẳng
Trang Gia Đạo
Email: info@lequangdang.net
www.lequangdang.net