Thiền
Quán
www.thienquan.net
Chữ Tâm
Như Phong sưu tầm
Chữ Tâm,
cái
Tâm hay Tâm là một danh từ trừu
tượng (ở đây
không noí đến tâm là
trái tim hay
là một điểm giữa),
là một linh thể ở dạng siêu hình
như điện, chi phối
toàn bộ hoạt động cuả một ngươì.
Nó là một
cái chià khoá để mở cửa Thiền
(thiền
môn), không thấy được, không sờ
được,
không đụng được nhưng biết được có sự
hiện hữu cuả
nó. Thí dụ như điện (electricity)
không thấy được
điện
nhưng khi bị điện giật thì biết, khi mở
nút thì
đèn sáng ra biết là có
điện.
Tâm
là
gốc, bản tánh (true nature) lương thiện ("nhân chi sơ
tánh bổn
thiện")
hay là linh hồn cuả
một con ngươì
và là sự tập trung và lưu trữ
toàn bộ sự vận động của lục phủ và ngũ
tạng trong một con
ngươì, nó ở bên trong con người
và
luân lưu như một dòng điện hay
"khí" (theo
Đông Y) còn được goị
là linh quang, có khi nó cư ngụ
bên trong
là lúc an tâm hay tịnh tâm
và
có lúc du
hý ta bà khắp nơi là vọng
tâm hay động
tâm.
Tâm
bất an (bị
động) là bị chi phối bởi thế giới
bên ngoài, bởi những hoạt động cuả
những giác quan
như nghe
(thính giác), thấy (thị giác),
ngửi (khứu
giác), sờ (xúc giác), nếm (vị
giác), biết
(trực giác hay tuệ giác) và
tinh (thần)
thông (linh giác).
Tâm an định là không bị chi
phôí bởi
bảy giác quan, lià bỏ thế giới động
loạn bên
ngoài, thường trú nội tại. Một con
ngươì tự chủ
hay là một
ngươì giác ngộ (khai ngộ) là
làm chủ được
sự vận hành cuả bảy giác quan hay
noí cách
khác là đã an được tâm
và đạt minh
tâm hay là phục
hồi được chân tâm là thành
quả.
Tâm
là
một linh thể ở dạng siêu
hình và siêu nhiên như
những tinh thể cực kỳ
nhuyễn nhỏ nên mắt trần không
nhìn thấy được
và di chuyễn cực nhanh như tốc độ cuả
ánh sáng.
Nó mang tính bất hoại và bất
diệt một khi
thân thể con ngươì ngưng hoạt động
thì tâm
(thần thức theo Lạt Ma giáo) trở về với
nguyên quán
cuả nó để định vị cho tương lai như
tái sinh (Đức Đạt Lai
Lạc Ma tái sinh lần thứ 14) hay tiếp tục tu
học ở cõi
khác..vv...
Tâm
là kim
chỉ nam cuả người đi tìm
chân
lý; là chià khoá cuả
ngươì tu thiền
để mở cửa "khai ngộ".
Vì "vạn pháp qui tâm
lục" (ngàn pháp chỉ noí về
tâm) , "minh tâm
kiến
tánh" (tâm sáng thì thấy
được tự
tánh = Tánh không) và "
kiến tánh
thành phật" (thấy được bản tánh
thành ngươì
khai ngộ), " Nhất thiết vi tâm
tạo"(tâm tạo ra tất cả), " Nhất tâm
sân hận khởi, bá vạn chướng môn
khai" (tâm
giận dữ thì tạo ra ngàn nghiệp chướng)
vv... Cho
nên tịnh tâm và an tâm
là bước đầu cuả
ngươì tu tập trong tiến trình phục hồi
chân
tâm hay đạt minh tâm,
là
kết quả sau
cùng, phải trải qua thời gian thiền
quán và tuỳ
theo "duyên" mà thời gian ngắn hay
dài. Noí
cách khác; An tâm là bước
đầu để phục hồi
chân tâm, chân tâm hay minh
tâm là
thành quả cuả thiền quán.
"Định nhi
hậu năng Tĩnh, Tĩnh nhi hậu năng An, An nhi hậu
năng Lự, Lự nhi hậu
năng Đắc". Nghiã là
có
Định
(yên ổn không bị lay động) được
thì Tâm
mới Tĩnh
(thu nhiếp tinh thần,
không nghĩ ngợi) được, có Tĩnh
được mới được thì
tâm mới An (thường
trú nội tại,
lià bỏ thế giới bên ngoài),
nghĩa là bất
động Tâm
(an trú
nội tại), có An tâm
thì mới có thể Lự (lọc),
tức
là
thanh
lọc
được
cái
Tâm,
xả
bỏ
những
mờ
ám,
bất
thiện,
bất
chính
(cái
màn
vô
minh
),
sau
khi
thanh
lọc
được sự vô minh
thì trở nên minh
tâm, khi đó mới đạt
Đạo.
"Nhân chi sơ
tánh
bổn thiện". Nghiã lả: Bản
tánh Thiện
là cái
gốc cuả con
ngươì, noí cách khác Thiện là
bản tánh
(true nature) cuả
con ngươì hay Tâm là bản tánh thiện cuả
con
ngươì.
Tánh Thiện
cuả Khổng giáo và Chân
Tâm,
Minh Tâm,
Tâm Không (Thiền) hay Phật Tánh
cuả Phật
giáo là một vậy.
"Ưng vô sở trụ,
nhi sanh
kỳ tâm". Nghiã là:
Không lưu luyến,
không bám viú, và
không chạy theo cảnh
(tướng), ai (ngã) và phương tiện
(pháp) thì chân
tâm (tâm không) phục hồi
hay là minh
tâm hiển lộ. Lục Tổ Huệ
Năng (Là ngươì Việt Nam đầu tiên
đắc quả Phật,
đã được trao y bát là tổ thứ
saú (6) cuả
Thiền
Tông và là tổ thứ ba mươi ba
(33) cuả Phật
Giáo mà
Phật Thích Ca là tổ thứ nhất (1)) khi
nghe câu kệ
nầy trong
Kinh Kim Cang ngài đã khai ngộ
(giác ngộ) trong
lúc là một tiều phu đi bán củi
(chi tiết hơn trong
Kinh Pháp Bảo Đàn).
Tâm không
là không bám vào cảnh,
không chấp
tướng, không chấp ngã
và pháp. Nó là
phá chấp (vô sở
trụ), vì
chấp vào tướng, cảnh, ngã và
pháp
thì tâm đầy ấp, thì không
thể sáng ra
được. Muốn sáng ra thì không
có gì
trong tâm hết, không có gì
có
nghiã là không chấp, chứa
caí gì hết,
vì cái tâm nguyên sơ, tự
nó đã
trong sáng, lương thiện, hoà
aí, nhân từ
và độ tha rồi.
Tuỳ theo
trình độ uyên bác cuả các
nhà
trí thức mà hiểu và thấy
tâm khác
nhau, tuỳ theo bậc giác ngộ cuả các
nhà tu
mà thấy và biết tâm khác
nhau. Cho
nên hầu
như không ai hiểu, thấy và biết
tâm giống nhau. Ngay
cả Huệ Khả là nhị tổ cuả Thiền tông vẫn
còn chưa
tinh thông được tâm là gì,
nên mới nhờ
sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma giúp an tâm!. Sơ tổ
Bồ Đề Đạt Ma khi
đến Trung Hoa đã phải diện bích 9 năm
trời vì
đã để cái tâm ở lại Thiên
Trúc?.
Vì thế để góp phần tìm hiểu
và làm
sáng tỏ tâm được một cách rốt
ráo những sưu
tầm về
tâm được lần lượt trình bày như
dưới đây:
Trong sách xưa
đã viết về Tâm:
"Tam điểm
như tinh tượng
Hoành
câu tợ nguyệt tà
Phi
mao tùng thử đắc
Tố
Phật giả do tha..."
(Ba điểm
như ngôi sao
Một
vành như trăng khuyết
Một
sợi lông không qua được
Là
ngươì khai ngộ (phật)
mà thôi)
Lại có
sách noí về Tâm:
"Hữu tâm vô
tướng
Tướng tự tâm sinh"
Hữu
tướng vô tâm
Tướng tùng tâm
diệt..."
(Có tâm tốt
mà không
có tướng tốt
Thì tướng theo
tâm
mà thành tốt
Có tướng tốt
mà
không có tâm tốt
Thì tướng theo
tâm
không tốt mà thành xấu).
"Tâm hảo, mạng hựu hảo
Phát đạt vinh
hoa tảo
Tâm
hảo, mạng bất hảo
Nhất
sanh dã
ôn bảo
Tâm, mạng
đô bất hảo
Cùng khổ cực
đáo lão".
(Tâm
tốt, mạng tốt thì phát đạt
Tâm
tốt, mạng không tốt vẫn có cơm no, ấm
áo
Tâm
và mạng đều không tốt thì khổ tới
già)
Ngài
Thái
Dịch Lý Đông A đã viết:
"...Nuôi
Tâm sinh
thiên tài
Nuôi
Trí
sinh nhân tài
Nuôi
Thân
sinh nô tài..."
Đại thi
hào Nguyễn Du
đã diễn tả chữ Tâm trong Kim
Vân Kiều:
"...Thiên căn ở tại
lòng ta
Chữ Tâm
kia mới bằng ba chữ
tài..."
Tâm
(Trích
từ: Cuộc Đời và Tư
Tưởng cuả Lục Tổ Huệ Năng.
Kinh Pháp Bảo
Đàn.
Dịch giả: Đinh Sĩ Trang,
Tác giả xuất bản tại
Úc
Đại Lợi năm 1999, trang 49)
Nơi chương
hai, Lục Tổ
Huệ Năng có dạy: " Việc tu
hành thì phải thực hành
ở Tâm, không
phải chỉ noí ngoài miệng.
Miệng tụng mà Tâm
không làm theo thì
vô ích mà
thôi".
Vâỵ Tâm là gì
? Tâm ở đâu ?
Chữ Tâm có hai phần
nghiã: Nghiã vật
chất và nghiã tinh thần.
1- Nghiã vật chất:
(a) Tâm là
trái tim cuả
ngươì và thú vật.
(b) Tâm là
điểm giữa, goị là
trung tâm điểm, trung tâm hoặc
trung tim.
2- Nghiã tinh thần:
(a) Tâm là
phần linh giác cuả
chúng sanh, gọi là tâm
linh, tâm hồn ,
tâm thần.
(b) Tâm là nơi
phát ra tư tưởng
và cảm tình.
(c) Tâm là nỗi niềm
cảm xúc, như
thương tâm, bận tâm, khổ
tâm, an tâm.
(d) Tâm là ý
chí, lòng
cương quyết, như quyết tâm, nhất
tâm, chuyên
tâm, tận tâm.
(e) Tâm là
lòng dạ, có
ý như tham tâm, sân
tâm, tà tâm,
thiện tâm, Bồ Đề tâm.
Nhiều người khi nghe noí
tới Tâm, liền nghĩ
ngay tơí trái tim, là một
cơ bắp nằm trong
lòng
ngực cuả mình, tức là một tạng
trong năm tạng cuả cơ thể
con ngươì là tim, gan, lá
lách, phổi, thận.
Nhưng theo Đạo học, nghiã cuả Tâm
thì khác.
Phật giáo, Lão
giáo và Khổng
giáo đều noí đến Tâm rất
nhiều. Chữ Tâm trong
các kinh sách thường được
dùng theo nghiã
tinh thần...
Bản tính cuả Tâm
là THIỆN.
Hễ trong lòng
không nghĩ đến điều gì xấu xa,
ác độc, nghiã
là khi lià bỏ được mọi ý
xấu, ý ác,
tức là đã trở về với cái
bản tính Thiện cuả
Tâm rồi đó.
Caí mầm Thiện
tự nhiên có sẳn trong Tâm
ấy, còn goị
là Phật
Tánh. Do
đó mà noí là Phật tại
Tâm, tức là
Phật Tánh ở trong Tâm moị
ngươì.
Tâm là chuá tể,
vì Tâm
là chủ tất cả. Ngay trong câu đầu
cuả Kinh Lời Phật Dạy
(Dhammapada) Đức Phật đã noí:
" Moị
hành động đều do
Tâm hướng dẫn, do Tâm làm
chủ và do Tâm
tạo nên."
Chủ tể cuả Thân là
Tâm: Sự phát
động cuả Tâm là ý, Bản thể
cuả ý là
Tri thức, đối tượng cuả Tri thức là vật
hoặc việc...
Trong kinh Kim Cang, Đức Phật
đã dạy cách
hàng phục Tâm như sau:
" Lục trần (sắc, thinh, hương,
vị, xúc,
pháp) là cái cớ để cho
Tâm con ngươì
động. Ví như mắt thấy gái đẹp,
Tâm chạy theo sắc,
tức Tâm động. Thấy tiền bạc chạy theo
chiếm đoạt, tức Tâm
động..."
" Kềm cho Tâm không
dấy động khó hơn
giữ cho Tâm được bình yên,
vì muốn kềm cho
Tâm không dấy động, thì
phải dùng ý
chí để kềm chế sự ham muốn chạy theo
dục vọng. Khi Tâm
chạy theo cảnh, theo người, theo lục trần một
cách hăng
hái, thì mình phải cương
quyết dùng
ý chí để kềm nó lại,
không chú
ý đến những sự kích thích
hay những cảnh có
sức quyến rủ lòng tham dục bằng
cách nhắc mình
phải nhớ rằng hành động để thoả
mãn lòng tham dục
vật chất ấy chỉ đem lại niềm vui tạm bợ, nhưng
sau đó sẽ xảy ra
biết bao nhiêu là phiền nảo, cho
nên ta phải cương
quyết gạt bỏ chúng ra, cương quyết
quên chúng đi.
Nhưng đó không phải là
điều dễ làm với một
số ngươì..."
Trích
từ: Tư
Tưởng và Cuộc Đời Lục Tổ Huệ Năng
- Kinh Pháp Bảo Đàn -
Dịch
giả: Đinh Sĩ Trang
|
Ý Nghiã Cuả
Chữ Tâm
Trong truyện Kiều, Nguyễn
Du có câu:
"Thiện
căn
ở
tại
lòng
ta
Chữ tâm
kia mới bằng ba
chữ tài"
“Tâm”
được xem là một
trong những phạm
trù quan trọng,
cơ bản của Phật
giáo.
Có thể
khái quát
thành 6 cấp độ về
“Tâm”
Phật giáo như
sau:
1:
“Tâm”
là
trái
tim
bằng
xương,
bằng
thịt
(Phật
giáo
không
để
ý
tới
nghĩa
này);
2.
“Tâm”
là thức
(vijnàna)
và theo
một nghĩa
nào
đó,
nó
chính
là
ý thức
thông
thường của
con người;
3.
Không
chỉ là
ý thức,
“Tâm”
còn
là
toàn bộ
thế giới
bên
trong,
cái chủ
quan,
tâm hồn,
tình
cảm, ý
đồ, tinh
thần,
tâm
lý.
“Tâm”
không
chỉ là
lý
mà
còn
là
tình.
Cái
“Tâm”
này
chính
là
“manas”;
4.
Ở góc
độ “Tâm”
là thức
thứ
tám,
thì
nó bao
gồm cả tiềm
thức,
5.
“Tâm”
còn
là sự
tổng hợp của
tất cả
cái
“Tâm”
theo nghĩa thứ
hai,
thứ ba, thứ
tư;
6.
Trong
Phật
giáo,
“Tâm”
còn
là bản
thể vũ trụ,
đó
chính
là
tâm thể,
chân
tâm.
Khi vào
Việt
Nam, hầu hết
nghĩa của chữ
“Tâm”
vẫn được giữ
lại. Vốn
có
cảm
tình
và ưa
chuộng đạo
Phật,
nên
người Việt Nam
rất đề cao chữ
“Tâm”.
Không
phải ngẫu
nhiên
trong cuộc
sống, người ta
luôn
khuyên
nhau, hay
câu cửa
miệng của mọi
người khi
thấy người
khác lo
lắng
thì
nói
hãy
“yên
tâm”,
“an
tâm”.
Mọi
người đều biết
rằng, nếu
nôn
nóng,
giận dữ
thì đều
làm cho
cái
“Tâm”
không
yên
thì sẽ
mất
khôn.
Cho nên,
muốn an
“Tâm”
thì
phải sống
chính
trực ngay
thẳng, trong
sáng.
Đây
chính
là
phép an
tâm
trong Phật
giáo
|
|
|
Trích
từ:
http://dongdiepnhung.com
|
Tâm
theo
Hán
Việt
tự
điển
Theo
Hán Việt
tự
điển cuả Thiều Chửu , nhà xuất bản Thanh
Niên phát
hành năm 2009. Trang 234 giải nghiã như
sau:
Tâm
có bốn
(4) nghiã:
(1) Tim : Đời
xưa cho tim
là vật để nghĩ ngơi, cho nên cái
gì thuộc về
tư tưởng đều goị là tâm, như tâm cảnh, tâm địa vv...
Nghiên cứu
về chổ hiện tượng cuả ý thức ngươì ta goị
là tâm
lý học. Phật học
cho
muôn sự muôn lẽ đều do tâm
ngươì tạo ra goị
là phái duy
tâm.
Nhà
Phật
chia
ra
làm
nhiều
thứ,
nhưng
rút
lại
có
hai
thứ
tâm
trọng
yếu
nhất:
(1) Vọng
tâm, caí tâm
nghĩ ngợi lan man sằng bậy; (2) Chân
tâm, cái tâm nguyên
lai vẫn sáng
láng linh thông, đầy đủ mầu nhiệm
không cần phải
nghĩ ngợi mới biết, cũng như tấm gương trong suốt, vật
gì qua
nó là soi tỏ ngay, khác hẳn với
cái
tâm phải suy nghĩ mới biết, phải học hoỉ mới hay.
Nếu
ngươì ta biết rõ cái chân tâm (minh
tâm)
mình như thế mà xếp bỏ hết cái
tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy đi thì tức
thì
thành đạo ngay.
(2) Giữa: Phàm nói về phần giữa đều goị
là
tâm, như viên tâm giưã
vòng
tròn; trọng tâm cốt nặng vv...
(3) Sao tâm: Một ngôi sao trong nhị thập
bác
tú.
(4) Cái gai.
Tâm theo từ điển tiếng Việt
Theo Đại Từ Điển Tiếng
Việt cuả Nguyễn Như Ý
, Nhà xuất bản Văn Hoá Thông
Tin phát
hành năm 1998. Trang 1502 giải nghiã
như sau:
Tâm.(I) dt 1. Điểm ở giữa: Tâm
đường tròn,
tâm điểm, tâm sai, hướng tâm, li
tâm. 2.
tâm đối xứng...
Tâm.
(II) 1. Tim:
tâm bì, tâm cang, tâm
huyết,tâm nhĩ,
tâm thất
2.
Tình cãm cuả con người; Lòng:
Tâm bệnh,
tâm công, tâm đắc, tâm
đâu ý
hợp...tâm lực, tâm niệm..vv...Nội
tâm, vô
tâm, từ tâm, thiện tâm, thương
tâm, yên
tâm, an
tâm, định tâm, đồng tâm, khai tâm,
hảo tâm, minh
tâm...
Chữ Tâm
Sống
trên đời gắng giữ
trọn chữ tâm
và nhất
niệm
báo ân đừng báo oán
Vũ Hối
Tâm
Là
Gì
?
Nó
Ở
Đâu
Trong
Cơ
Thể
Tâm Hà Lê Công Đa
Lời
Người Dịch: Tâm là gì? Trong
chúng ta
chắc có nhiều người đã từng được
nghe giai thoại Thiền
học liên quan đến câu chuyện "an
tâm" giữa Bồ Đề Đạt
Ma và Tổ Huệ Khả. Khi Tổ Huệ Khả thỉnh cầu
Bồ Đề Đạt Ma, “Xin
Thầy an tâm cho con.” Bồ Đề Đạt Ma bảo,
“Ngươi đem tâm của
ngươi ra đây để ta an cho.” Tổ Huệ Khả bối
rối, “Nhưng con
không thể tìm ra nó.” Bồ Đề
Đạt Ma cười bảo,
“Thì ta đã an tâm cho ngươi
rồi đó.”
Sự bối rối của Tổ Huệ Khả cũng là sự
bối rối của tất cả
chúng ta. Cho đến nay Tâm vẫn
là một khái
niệm trừu tượng. Có tâm hay
không? Nếu có,
tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
Phải chăng tâm
chính là thần thức, một danh từ
mà Phật
giáo Tây Tạng thường hay dùng
để chỉ một cái
gì đó như là một chủng tử
-tích lũy tất cả
nghiệp quả của một cá nhân- sẽ rời bỏ
xác
thân khi ta chết để đầu thai hay đi về một
cảnh giới khác?
Những câu hỏi này không
phải chỉ được đặt ra
cho những người Phật tử mà còn cho
cả giới khoa học
nói chung. Dưới mắt nhìn khoa học,
cái tâm
này nếu hiện hữu tất phải nương tựa
vào thân
xác để tồn tại. Trong con người, não
bộ là bộ phận
chủ quản của ý thức, của tư duy, thế
nên cái
tâm này nếu có, não bộ
phải là
ngôi nhà lý tưởng để tâm
trú ngụ, hay
nói một cách khác hơn,
tâm chỉ là sự
nối dài của não bộ. Trên căn
bản của cái
nhìn này, khi ta chết, não bộ
ngưng hoạt động,
cái tâm này cũng phải biến mất
theo.
Cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa
tâm và
thân, như thế, đã kéo
dài từ bao thế kỷ qua.
Sam Parnia, Bác sĩ chuyên khoa hồi
sinh, Giám đốc
Dự án “Human Consciousness Project”
và là
tác giả cuốn “Chuyện Gí Xảy Ra Khi
Chúng Ta Chết,”
đang cố gắng để giải quyết cuộc tranh luận
này. Trong một cuộc
phỏng vấn hồi đầu tháng 10/08 dành
cho AOL, Bác sĩ
Parnia đã cho chúng ta một ý
niệm căn bản về
trường hợp cận tử cũng như phương pháp khoa
học thực nghiệm được
áp dụng hiện nay trong việc khảo cứu về
tâm. Ông
đã chứng minh cho ta thấy một điều:
Tâm có mặt,
hiện hữu như một thực thể độc lập đối với
não bộ. Kết quả
này vô hình chung đã
hoàn toàn
phù hợp với những gì được mô
tả trong “Tử Thư” của
Phật giáo Tây Tạng về việc thần thức
lìa bỏ
xác thân trong giờ lâm tử.
Đây là một
bước tiến quan trọng của khoa học trong nỗ lực
nghiên cứu về
tâm. Từ viên gạch lót đường
này, khoa học
đang bắt đầu có những bước đi mới
vào ngưởng cửa
bí mật này.
Tốt nghiệp Đại Học Y Khoa St. Thomas,
Luân Đôn, BS
Parnia là người sáng lập
Consciousness Research Group tại
Đại học Southampton, Anh quốc. Cùng với
Tiến sĩ Peter Fenwick,
những công trình nghiên cứu của
ông về Kinh
Nghiệm Cận Tử (NDE - near-death experiences)
đã gây
được sự chú ý của dư luận,
không phải chỉ
riêng ở Anh quốc mà trên
toàn thế giới.
Công trình ngiên cứu này
đã được
trình bày trong một tác phẩm
xuất bản mới
đây: “What Happens When We Die: A
Groundbreaking Study into the
Nature of Life and Death.” LCĐ.
Làm sao bác sĩ có thể giải
thích được
trường hợp cận tử?
Cho đến nay, bằng chứng cho thấy là khi
trái tim ngừng
đập, máu sẽ không còn
luân lưu trong cơ thể,
tất cả đều đi vào trạng thái bất
động. Não bộ chấm
dứt hoạt động trong vòng 10 giây sau
đó. Một điều
khá thích thú là –khi
chúng
tôi, những bác sĩ điều trị, cố gắng
tìm cách
can thiệp vào bằng cách xoa
bóp ngực, cho thuốc,
kích thích trái tim- mặc cho
tất cả những nỗ lực
này có thể kéo dài
hàng chục
phút hay cả giờ, các cuộc
nghiên cứu đều cho thấy
là chúng ta vẫn không thể
nào bơm đủ liều
lượng máu cần thiết vào não
bộ để cho nó
hoạt động trở lại.
Vậy thì điều gì đã xảy ra cho
tâm ở
giây phút này? Cụ thể hơn,
trong trường hợp của
tôi, điều gì đã xảy ra cho
bệnh nhân
mà tôi đang điều trị? Cái
tâm của y có
còn ở đó hay không?
Chúng ta nghĩ rằng
tâm cũng sẽ chấm dứt hoạt động chỉ trong
vòng vài
giây đồng hồ. tuy nhiên một điều
thích thú
là, trong 5 cuộc nghiên cứu độc lập
khác nhau -một
là của tôi- có từ 10 đến 20
phần trăm những người
đã được công nhận chết lâm
sàng, người ta vẫn
ghi nhận được có những dấu hiệu về một số
hoạt động của
tâm. Nó cho thấy một điều rằng, ở
trong con người
có một số loại hình ý thức
nào đó
vẫn còn hiện diện cho dù não
bộ đã
không còn hoạt động nữa.
Những điều mà họ mô tả được gọi
là kinh nghiệm cận
tử. Đây là cảnh giới chủ quan, giống
như ỏ trong giấc mơ.
Thông thường, họ bảo rằng, “Tôi
đã thấy một
cái đường hầm, Tôi đã thấy
ánh sáng.”
Chúng ta không thể nào thẩm
định được những điều
này. Tôi không thể nào
nói rằng giấc
mơ của bạn là thực hay không thực.
Một số người sau khi
được hồi sinh đã kể lại rằng họ đã
thấy quang cảnh
bác sĩ và y tá đang
làm việc với những chi
tiết đặc thù. Thế thì câu hỏi
đặt ra là
–nó có xảy ra đúng như vậy
không? Có
thực sự như vậy không? Những Bác sĩ
và y tá
tại hiện trường đều xác nhận về những điều
mà bệnh
nhân mô tả là đúng. Điều
này có
nghĩa là bệnh nhân khi sống lại
đã nhớ lại tất cả
những gì đã xảy ra. Vậy thì
họ đã thực sự
trông thấy? Trông thấy bằng
cách nào? Hoặc
giả lúc đó tâm của họ đang
thực sự lơ lửng ở một
nơi nào đó trên trần
nhà?
Điểm quan trọng ở đây là, không
ai với đầu óc
bình thường lại có thể phủ
nhân kinh nghiệm
này đã xảy ra. Câu trả lời dễ
dàng nhất
thì cứ cho rằng đây chỉ là một
trò chơi của
tâm, một cái ảo ảnh. Nhưng vấn nạn
là, khi sống lại
họ đã nói cho chúng ta biết
tất cả những gì
đã thực sự xảy ra tại phòng hồi
sinh. Thế nên
khó mà cho rằng đây chỉ
là một ảo ảnh. Người
ta chỉ có thể giải thích rằng sự
việc như thế xảy ra
vào ngay thời điểm khi não bộ vừa
ngưng hoạt động hay
là vừa mới phục hồi. Chẳng hạn như bạn nằm
mơ thấy mình
đang sống ở một nơi nào đó cả
hàng năm trời, nhưng
nó chỉ có thể xảy ra trong thời gian
thực tế chưa tới một
phần triệu giây đồng hồ. Cũng vậy, ngay
lúc não bộ
bắt đầu ngưng hoạt động, bạn liền có ngay
cái kinh nghiệm
nhanh chóng tại hiện trường và cảm
tưởng như là
mình đã có mặt ở đó
trong suốt thời gian.
Tuy nhiên vấn đề ở đây là,
hãy tạm gác
qua một bên những chuyện đường hầm và
ánh
sáng, những bệnh nhân sống lại
đã kể cho
chúng ta nghe những chi tiết rất đặc
thù, “Nó
có thể đã xảy ra vào khoảng
9:15AM.” Và
những sự kiện mô tả đã xảy ra trong
khoảng từ 10 đến 20
phút.
Một cách giải thích khác
là họ thực sự
trông thấy mọi việc. Họ đã nhắm mắt
và chuyện xảy
ra là có thể họ mở mắt ra lại ở một
lúc nào
đó và chúng bắt đầu
tích lũy dữ kiện rồi
não bộ thu lượm những dữ kiện này.
Điểm then chốt của
cách lý giải này là
bệnh nhân
đã thực sự trông thấy mọi chuyện đang
xảy ra.
Tâm vẫn còn là một bí
mật. Chúng ta
không thể hiểu được. Có thể tâm
là phi-cục-bộ
với não bộ. Nếu bạn đem vấn đề này
hỏi những nhà
vật lý lượng tử thì có thể
như vậy bởi vì
chúng ta hiểu rằng ở mức độ này, mọi
sự vật có
tính phi-cục-bộ. Chúng ứng xử trong
một cách thế
có vẻ không giống ai.
Bác sĩ hy vọng đạt được những gì
thông qua
công trình nghiên cứu
này?
Tiến bộ về y khoa? Một sự hiểu biết sâu sắc
hơn về cái
chết?
Tất cả những gì mà chúng ta
làm trong
lãnh vực y khoa đều mang đến phúc
lợi cho xã hội.
Nếu bạn bỗng dưng khám phá ra một
phương thuốc điều trị
bệnh ung thư, đó là một bước tiến
của y khoa nhưng chung
cuộc vẫn là một bước tiến của xã
hội. Đây là
một công trình nghiên cứu y
khoa sẽ mang đến
phúc lợi cho toàn xã hội.
Công việc
này khá quan trọng bởi vì
những hiểu biết của
chúng ta về tâm và não
rất ít oi.
Trong đa số trường hợp, chúng ta
không thể tách
lìa chúng. Chỉ trong trường hợp chết
lâm
sàng hoặc bị đứng tim, tâm
và bão bộ
mới có thể tách rời khỏi nhau.
Và nếu như
chúng có thể được tách rời ra
thì vấn đề
này sẽ có những tác động đến
khoa thần kinh học.
Phần lớn công việc mà chúng
tôi đang
làm là nghiên cứu những
gì xảy ra cho
não bộ cùng phương thức mà
chúng tôi
có thể cải thiện vấn đề hồi sinh đối với
trường hợp đứng
tim, cải thiện phương thức trông nom những
bệnh nhân tim
vừa mới ngưng đập. Nếu chúng tôi mang
được bệnh nhân
trở lại với đời sống kịp thời, sẽ tránh
được cho họ những thiệt
hại về hệ thần kinh, những hư hỏng về trí
não, và
những bất bình thường khác.
Nó thực sự mở ra một viễn cảnh vô
tận. Một đằng là
chuyên về tim và đằng khác
là khoa thần kinh
học. Một cách tổng quát, nó
sẽ mang phúc
lợi đến cho mọi người.
Trường hợp cận tử (NDE)
Bằng cách nào bác sĩ
có thể xác
nghiệm tính cách đúng đắn về
những kinh nghiệm xảy
ra mà bệnh nhân cận tử mô tả
lại?
Chúng tôi cho thiết trí một bộ
phận giống như
cái kệ ở ngay phía trên đầu
giường của bệnh
nhân. Phía bề mặt của cái kệ
quay xuống dưới -tức
là phía mà bạn có thể
trông thấy khi
đang nằm ngửa ở trên giường quay mặt
nhìn lên-
có một cái hình tam
giác. Ở phía
kia, tức là phía mà bạn chỉ
có thể
trông thấy được khi ở trên trần
nhà nhìn
xuống (bệnh nhân không thể trông
thấy được),
có vẽ một bức tranh tương đối phức tạp.
Hãy hình dung bạn đang nằm
trên giường bệnh viện
mà ở phía trên mình
là một cái
kệ. Nếu người nào đó (tức là
bệnh nhân kể
lại về kinh nghiệm cận tử) sau khi sống lại
và mô tả
là họ đã thấy một hình ảnh
nào đó,
trường hợp này như đã nói ở
trên là
một trò chơi của tâm, một ảo ảnh. Nếu
họ bảo rằng họ
trông thấy một cái hình tam
giác, thì
có thể là bởi vì họ đã
mở mắt ra.
Còn nếu khi sống lại họ cho biết là
đã nhìn
thấy cái bức tranh phức tạp kia, điều
này có nghĩa
là ý thức (tâm) của họ tiếp
tục tồn tại.
Trong công trình nghiên
cứu này
chúng tôi muốn cho thiết trí
khoảng từ 50 đến 100
cái loại kệ này, tối thiểu ở khoảng
25 bệnh viện.
Chúng tôi đã thực hiện được
khoảng một nửa -phần
lớn là tại Anh quốc. Chúng tôi
cũng có 9
trung tâm tại Hoa Kỳ, và chúng
tôi đã
tiên phong thử nghiệm phương pháp
này tại Anh từ 18
tháng nay. Trong khi chúng tôi
không thể
nào tiên đoán được lúc
nào thì
trường hợp đứng tim sẽ xảy ra, chúng
tôi nghĩ rằng nơi
có khả năng xảy ra là phòng
cấp cứu và
phòng bệnh nhân nguy kịch. Một khi
đã được thiết bị
xong, chúng tôi chỉ làm
công việc theo
dõi. Và rồi chúng tôi
phỏng vấn những người
sống lại. Nếu chúng tôi có thể
bắt gặp được trường
hợp đứng tim đúng lúc, chúng
tôi có
thể cho gắn máy theo dõi não
bộ.
Chúng tôi cũng đang sử dụng một
phương tiện kỹ thuật tối
tân hiện nay trong việc khảo sát
não bộ gọi
là INVOS [in-vivo optical spectroscopy]
dùng để đo lượng
oxy trong não. Tất cả những cuộc
nghiên cứu trước
đây đều cho biết là dù cố gắng
cách
nào chúng ta cũng không thể
đưa đủ lượng máu
cần thiết vào não. Làm sao để
bạn biết được chuyện
này? Biết đâu có thể đã
có đủ
máu ở trong não nhưng tại vì
bạn không biết
mà thôi. Với INVOS, chúng ta
sẽ biết một
cách chính xác bao
nhiêu máu
đã được bơm vào não và
như thế chúng
ta có thể ghi nhận được mối liên hệ
tương quan với trường
hợp cận tử. Đây là điều chưa từng
được thực hiện trước
đây.
Cho đến nay loại dữ kiện nào mà
bác sĩ đã
thu lượm được?
Chỉ là những dữ kiện rất mực tiên
khởi. Chúng
tôi chỉ mới bước vào giai đoạn điều
chỉnh một cách
tốt đẹp phương pháp nghiên cứu
này. Chúng
tôi mới có một số nhỏ đối tượng
nghiên cứu và
muốn nâng con số này lên 1,500
người. Lý do
là tỷ lệ những người có kinh nghiệm
cận tử, sống
sót qua cơn đứng tim, rất là
ít oi, chỉ khoảng 2%.
Đó là lý do tại sao
chúng tôi phải
có rất nhiều bệnh nhân và bệnh
viện để công
trình nghiên cứu này có
thể đạt được kết
quả. Không những người sống sót
đã hiếm
mà trong số những người này, kinh
nghiệm về cận tử lại
càng hiếm hơn.
Tâm vẫn là một bí mật
hàng đầu
Hồi nào thì bác sĩ quan
tâm đến chuyện
có sự phân cách giữa tâm
và não
bộ?
Tôi bắt đầu quan tâm đến vấn đề
này khi còn
là một sinh viên y khoa, mười lăm năm
trước đây. Khi
mà bạn -những y tá, bác sĩ-
phải đối diện
và có những quyết định liên
quan đến những vấn đề
sống chết (cụ thể như có nên thực
hiện việc hồi sinh cho
bệnh nhân này không?), tất cả
đều chỉ đơn thuần dựa
trên những ý kiến chủ quan, và
dĩ nhiên
là có một sự mù mờ trong
đó
Trong năm cuối cùng trước khi tốt nghiệp,
tôi đã
chứng kiến một số lượng bệnh nhân bị đột tử
vì đứng tim.
Trong đó có một trường hợp đặc biệt,
đó là
một bệnh nhân mà tôi đã
từng quen biết trước
đây. Một hôm, tôi vừa mới rời
phòng anh ta
chừng 30 phút vì anh ta trông
có vẻ khỏe
khoắn thì nhận được cấp báo
là có một
trường hợp đứng tim xảy ra. Bất hạnh thay, trường
hợp đó lại
chính là anh ta.
Bây giờ nhớ lại, khi thấy anh ta nằm bất
động ở trên giường
tôi không khỏi khởi lên suy
nghĩ: “Chuyện gì
đang xảy ra cho cái tâm và
ý thức của anh
ta? Anh ta có thể nghe hay nhìn thấy
chúng
tôi không?” Tôi đã từng
nghe những mẩu chuyện
như vậy về những người có kinh nghiệm cận
tử, thế nhưng vẫn chưa
có câu trả lời chính thức của
khoa học. Tôi
nghĩ đó là giây phút
quyết định của đời
tôi.
Ngay cả lúc còn là một sinh
viên y khoa
tôi đã rất thích thú
trong việc tìm
hiểu tâm là gì, và mối
liên hệ của
nó với não bộ ra sao. Tại sao
chúng ta là
một nhất thể toàn vẹn như là những
cá nhân
với những nhân cách, cảm xúc,
tình cảm?
Trước đây tôi tin rằng tất cả đều bị
cắt đứt, khô
kiệt (khi một người chết) cho đến khi tôi
bắt đầu nhìn
sâu chi tiết vào vấn đề này.
Có thể
nói đây là lãnh vực
cuối cùng của
khoa học hoàn toàn chưa được
khám phá.
Thế thì, trên quan điểm cá
nhân, bác
sĩ tin rằng tâm là cái
gì?
Ngay bây giờ, dĩ nhiên, tôi
không có
câu trả lời cho bạn. Tâm vẫn là
một bí ần
hàng đầu. Mặc dầu đa phần mỗi con người
chúng ta
không ngừng phóng thích những
hoạt động điện tử,
nhưng không ai đưa ra được một thí
nghiệm hay là
một bằng chứng khả tín nào về
cơ chế vận
hành sinh học.
Nếu tôi bảo bạn nhìn vào một
cái tế
bào não ở trong kính hiển vi
và bảo rằng,
“Cái tế bào não này
đang suy nghĩ hay đang
mệt mỏi,” chắc bạn sẽ tự bảo mình,
“Cái ông
này ăn nói ba trợn. Làm sao
mà nó
có thể sản xuất ra một tư tưởng, ý
nghĩ được.” Chuyện
gì xảy ra khi bạn nối kết, 2 hay 100, hay
1,000 hoặc 1 triệu tế
bào não lại với nhau? Những tư tưởng
phát xuất từ
đâu? Không ai biết. Không ai
có thể giải
thích. Điều này đưa ta đến vấn nạn
trong việc tìm
hiểu về ý thức.
Hiện đang có hai khuynh hướng liên
quan đến vấn đề
này. Một phe thuộc khuynh hướng cổ điển,
quy ước hơn, cho rằng
có những hoạt động điện-hoá xảy ra
trong não bộ,
nhưng họ không thể giải thích được
như thế nào.
Còn phe kia thì thú nhận rằng
đó là
một thực thể mà khoa học chưa khám
phá được cho
nên không thể giải thích tiến
trình biết của
não bộ. Cũng chẳng khác gì
toán học
và trọng lực. Bạn không thể
phân chia trọng lực ra
thành những mảnh nhỏ. Trọng lực là
trọng lực.
Có thể nói có đến khoảng
chín mươi
chín phần trăm thời gian của đời sống, bạn
không thể
nào tách rời tâm và
não ra khỏi nhau.
Tuy nhiên trong một số trường hợp hiếm hoi,
bạn có thể
làm được việc này bởi vì
não hoàn
toàn ngưng hoạt động và bạn
có thể quan sát
được những gì xảy ra đối với tâm. Nếu
quan điểm của phe
thứ nhất là đúng -rằng đó
là những hoạt
động của tế bào não - thế thì
khi bạn cho
não ngừng hoạt động, cái tâm
cũng sẽ phải biến mất
theo. Cũng giống như ánh sáng, khi
bạn tắt điện,
ánh sáng tắt theo, khi bạn mở điện,
ánh
sáng trở lại. Và như vậy, một khi
bạn tắt điện mà
ánh sánh vẫn còn –có
nghĩa rằng nó
không phải là nguồn của ánh
sáng. Đây
là một thực thể khoa học hoàn
toàn mới mẻ.
Nghiên cứu vấn đề này rất mực
thú vị bởi vì
đây có thể là lần duy nhất
chúng ta
có mọi câu trả lời dứt điểm cho một
câu hỏi
đã từng được nêu lên từ thời Hy
Lạp cổ. Người ta
đã không ngừng tranh luận nhau về vấn
đề này qua
mọi nền văn minh trên thế giới. Và
bây giờ họ vẫn
tiếp tục tranh luận, cũng cùng một vấn đề
đó, và
cũng cùng hai phe đó.
Dr. Sam Parnia
Tâm Hà Lê Công Đa
dịch
|
Trích từ: http://daitangkinhvietnam.org
Nguồn:
www.khongtu.com
Nguồn: www.conquydo07.tk
Cần Một Chữ Tâm
“Thiện
căn là ở lòng ta
Chữ tâm
kia mới
bằng ba chữ tài”.
Chúng
ta,
từ
lúc
nhỏ
đến
giờ,
chắc hẳn đã từng
nghe ai đó bàn về Tâm.
Mà khi nghe đến
Tâm ta chắc hẳn đặt ra câu hỏi cho
mình “Tâm”
là gì? Tâm có phải
là con tim
không ?”. Có rất nhiều học thuyết
nói về Tâm
nhưng ở đây chúng ta chỉ luận
bàn về chữ Tâm
theo quan điểm Nhà Phật. Theo quan điểm
Nhà Phật
thì cho rằng khi nói đến chữ
Tâm là đang
nói về “Chân
Tâm”.
Và
để
đạt
tới
cái
gọi
là
“Chân Tâm” ta
phải bỏ đi cái phần “vọng tâm” (khởi
lên những vọng
niệm,a những tham lam, sân hận, si
mê…).
Thật ra, bản
chất của Tâm
chúng ta là thanh tịnh, tự
nhiên. Cái
“Tâm Năng”
của
chúng ta có thể toả sáng
giống như ánh
sáng mặt trời vậy (nhà Phật gọi
là Phật
tánh), mỗi người chúng ta ai cũng
có Phật
tánh (Tâm làm chủ không
bị ngoại cảnh
tác động, không phân biệt,
luôn sáng
suốt…) nhưng do vô minh, do ham muốn, do
phiền não
nên chúng ta mãi trôi
lăn trong sinh tử
luân hồi.
Tâm
của
chúng ta nó chạy nhảy, rất
khó đứng yên.
Và để nhiếp Tâm, thu phục Tâm
là một việc
làm rất khó đòi hỏi một
quá trình
rèn luyện, tu tập nhưng không
có nghĩa là
chúng ta sẽ không bao giờ làm
được. Nếu
chúng ta quyết tâm (luôn
kiên định) thì
không có gì ngăn cản được
chúng ta.
“Tâm tích Phật lòng
thành cũng Phật, Phật
tích Tâm Phật ở trong lòng”.
Tại sao ta phải nên tìm hiểu về
Tâm, và vai
trò của “Chân Tâm”?
Sự
thật thì, Tâm là căn bản của
vạn năng và
cũng là nguồn gốc của vạn ác,
có thể đưa
chúng ta đến con đường chánh đạo
cũng có thể đưa
chúng ta đi theo con đường tà đạo.
Thánh
nhân hay ma quỷ đều do Tâm mà
ra.
“Tâm sanh các pháp thảy đều
sanh
Tâm
diệt
các
pháp
thảy
đều
diệt
Muôn
ngàn
nghiệp
chướng
thảy
do
Tâm
Rồi
cũng
do
Tâm
mà
diệt
nghiệp”.
Từ
xưa
khi
Phật
còn
tại
thế
thì Phật đã từng
nói: thế giới mà chúng ta
đang sống có 5
thứ ác trược, đó là: (1) kiếp
trược (kiếp bệnh,
dịch, đói kém, đao binh), (2) phiền
não trược
(không được an vui,luôn lo lắng,phiền
não), (3)mạng
trược (thọ mạng ngắn ngủi), (4) kiến trược
(chê bai không
tin chánh pháp),(5) chúng
sanh trược (con người
không có đức hạnh).nên việc
luôn rèn
luyện tâm hướng đến cái
chân-thiện –mỹ là
yêu cầu cấp thiết.
Trong
nhịp
sống
hối
hả
như
hiện
nay, việc giữ Tâm luôn tĩnh
lặng, sáng suốt, an lạc là một việc
làm rất
khó. Bởi vì, chúng ta đang
sống đang tương
tác với xã hội này, mà
xã hội
thì luôn luôn vận động
và lôi cuốn con
người vào guồng máy vật chất. Mọi
chuyện dù lớn
hay nhỏ đều tác động ít hay nhiều
đến với chúng
ta. Có đôi lúc chúng ta
cảm thấy mệt mỏi
và khi hoàn cảnh đưa đẩy ta
bàng hoàng nhận
ra,hình như mình đã
không còn
là mình và mọi chuyện đang
không nằm trong
tầm kiểm soát của mình nữa. Những
lúc ấy nếu
không vững tâm thì thật
là tai hại. Ta sẽ
có những sai lầm, mà thời gian
thì không bao
giờ trở lại để sửa những sai lầm.
Vậy chúng ta cần phải làm gì
để giữ cho Tâm
mình trở về với Phật tánh của
mình?
Con
đường
chấm
dứt
khồ
đau
không
đâu xa. Đó
chính là tìm về với Phật
tánh của
mình. Đó là con đường tu
giới, định,tuệ. Con đường
tu tập theo chánh pháp,chọn
pháp môn
phù hợp và :
“ Dứt ác
làm lành giữ tâm hồn cho
trong sạch đó
chính là Phật Pháp”.
Từ
trái
tim
tôi
muốn
gừi
đến
các bạn hãy
luôn là mình bạn
nhé.Và hãy
tìm ra Phật Tánh của mình.
Trước những khó
khăn,thử thách của cuộc đời này
chúng ta
hãy mạnh mẽ lên, luôn giữ cho
Tâm mình
luôn an lạc,thanh tịnh,dứt trừ phiền
não. Và
hãy luôn tha thứ cho người
khác để chúng ta
luôn cảm thấy thanh thản và nhẹ
nhàng.
“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện
đời
như
nước
chảy
hoa
trôi
Lợi
danh
như
bóng
mây
chìm
nổi
Chỉ
có
tình
thương
để
lại
đời”.
Và
chúng
ta
hãy
là
một
viên
đá
nhỏ, trong vô số viên đá
khác, để chung
góp xây đạo Từ Bi; sẽ là một
tia sáng nhỏ
trong vô số tia sáng khác, để
cùng nhau
nêu cao lời Phật dạy, để đem lại hạnh
phúc và
giác ngộ cùng khắp cho tất cả mọi
loài.
Tác giả:
Viên
Quý - Ngọc Trâm
Nguồn: phatphap.wordpress.com &
phatphapnhiemmau.com
CÙNG
LÀ CHỮ TÂM
Trăm năm trong cõi người
ta,
Khổ đau, hạnh phúc cùng
là chữ tâm.
Tâm hiền: phúc lạc muôn
phần,
Tâm thiên ác độc,
cõi trần khổ đau.
Thích
Nhật
Từ
http://www.buddismtoday.com
Cái
tâm con người sáng suốt,
quán cổ, tri kim, hay
khiến con người làm điều hay, sự
phải, giục cho con người mến
Ðạo-đức, chuộng tinh thần, biết thuận
theo Thiên-lý.
Nhưng người phải nhớ lấy đừng cho
lòng dục dấy lên, tội
tình gây mãi.
Cái tâm thì
là thiện,
là sáng
suốt, nhưng bị vật dục
ngoài đưa đẩy vào làm
cho choán cái
thanh-quang, sanh lòng
quấy-quá, mà cái
Tâm thì tức là
Tánh, Tánh tức
Tâm. Người quân tử bao giờ cũng
giữ cái tâm
cho thanh-bạch tịnh an, không cho
phóng túng chạy
bậy ra ngoài. Biết cách
gìn giữ cho định
cái tâm rồi thì trăm
mạch lưu-thông
khí huyết, nhơn-dục tịnh tận,
Thiên-lý lưu
hành, tâm, tánh
không không, chẳng một
vật chi dính vào, ấy là
"Vạn pháp qui
tông, ngũ hành hiệp nhứt" (duy
tinh duy nhứt). Chớ con
người để cái tâm
buông-lung thì sự chết một
bên chơn, quỉ vô-thường chực
rước. Vậy người phải suy cạn
nghĩ cùng. Thí dụ: con
gà, con chó
nó rủi sẩy ra mình còn
biết đi tầm kiếm nó
về thay, lựa là cái tâm
mình tản lạc ra
ngoài mà không biết đem
trở lại sao?
Tâm là cái kho
chứa đồ, nhưng kho chứa đựng
đầy rồi, không chứa đặng nữa, chớ
cái tâm chứa đựng
bao nhiêu cũng đặng.
Con người nên chủ
cái Tâm, gìn
cái Ý, mà bảo tồn lấy
tam-bửu, ngũ-hành.
Tam-bửu là quí nhứt của con
người. Thành Phật,
Tiên cũng do đó, mà
làm ma quỉ cũng tại
đó. Trước khi muốn giữ ba báu
ấy thì cần phải bế
ngũ-quan. Ngũ-quan là: nhãn,
nhĩ, tĩ, thiệt, thân.
Ngũ-quan lại thuộc về ngũ-tạng ăn với
ngũ-hành.
Bế nhãn-quan
thì tâm hỏa
không bừng cháy.
Bế nhĩ-quan thì thận thủy mới lưu
hành.
Bế tĩ-quan thì phế kim phân
chì sắt.
Bế thiệt-quan thì can mộc chẳng
đảo xiêu.
Bế thân-quan thì tỳ thổ
đặng sanh khí.
wWw.hadung.net
Nguồn: http://www.traimientay.com
|
|
|
Như những trích
dẫn trên cho thấy một hình ảnh
và một sự vận động
cuả Tâm khá rõ
ràng:
- Tâm là một linh
thể cấu tạo nên một
con người, gồm hai thể là linh thể
và thân thể ?
- Tâm ở trong cơ thể cuả một
ngươì ?
- Thiền là một trong những
cách để định, tĩnh
và an Tâm
? An tâm là giữ nó lại với
thực tại, không để
cho nó du hý ta bà hay bị
động bởi thế giới
bên ngoài.
- An tâm là bước đầu
và phục hồi chân
tâm (tâm không) bước cuối
trong thiền ?
- Chân tâm là
tâm nguyên sơ, tự
nó đã lương thiện, trong
sáng, hoà
ái, nhân từ và độ tha rồi.
Chân tâm
còn được goị là
minh tâm hoặc tâm không ?.
- Bản tánh thiện cuả Khổng
giáo và
chân tâm là một ?
- Chân
tâm, minh tâm, tâm
không, tánh thiện,
tánh không
và Phật tánh là một ?
-
Kính mời bạn xem tiếp trang kế.
Như
Phong
|
An
tâm là bước
đầu để phục hồi chân tâm
Chân
tâm
hay
tâm
không
là
thành
quả cuả thiền quán.
www.thienquan.net
|